Trang chủ . video ,diễn đàn ,thành viên ,chữa bệnh ung thư,liên kết

Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

trần triều hưng đạo vương

Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông là con An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tôn là chú ruột, sinh ngày 10/12 âm lịch. Còn có truyền thuyết kể lại rằng, nguyên xưa kia Đức Thánh Tản Viên thấy luồng khói trắng bay từ núi Tây hóa thành tinh thuồng luồng, xuống nhà người đàn bà kia tư thông, ngài nghĩ ắt hẳn đó sẽ đầu thai thành kẻ gây hậu họa cho nhân gian (tên đó sau này chính là Phạm Nhan_Nguyễn Bá Linh, cha là người Tàu Phúc Kiến, mẹ là người Đông Triều, nằm mơ thấy tinh thuồng luồng mà sinh ra hắn), vậy nên Đức Thánh Tản liền đem tâu chuyện đó với Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng hỏi rằng ai có thể xuống hạ phàm để trừ diệt mối hậu họa đó thì có Thanh Tiên Đồng Tử tình nguyện xin xuống phàm để giúp dân. Ngọc Đế ưng thuận sai ban thần kiếm, cờ ấn, tam tài của Lão Tử, ngũ bảo của Thái Công rồi truyền Kim Đồng Ngọc Nữ hộ giá xe mây xuống nước Nam hạ phàm. Liền đó Vương Mẫu nằm mơ thấy có người áo xanh tự xưng là người của Thiên Đình xuống đầu thai phù đời, từ ấy bà hoài thai, đủ ngày đủ tháng thì hạ sinh được ông, trong nhà ngào ngạt hương thơm và ánh sáng. Vậy nên, trong bản văn cũng có đoạn:
Vương Phụ là Đức An Sinh
Cùng Đức Thánh Mẫu cầm lành hợp duyên
Điềm lành vốn tự thiên nhiên
Thanh Tiên Đồng Tử phút liền đầu thai
Chí kì sinh đặng con trai
Tài kiêm văn võ ít ai sánh bằng"

Sau này ông giúp vua Trần hai lần chống giặc Nguyên Mông, ông sinh được bốn người con trai (thường gọi là tứ vị vương tử) và hai người con gái (thường gọi là nhị vương cô hay nhị vị vương bà) đều có công lao giúp vua Trần chống giặc Nguyên, ngoài ra trong công cuộc “Sát Thát” còn có rất nhiều đóng góp của vương tế của ông là Phạm Ngũ Lão Điện Súy (thường gọi là Đức Thánh Phạm Điện Súy hay Phù Ủng Đại Vương) cùng các tướng tài của ông như: Dã Tượng, Yết Kiêu (thường gọi là đôi bên Đức Ông Tả Hữu)… Có thể nói trong công cuộc bảo vệ đất nước dưới thời Trần, có công đóng góp không nhỏ của gia đình ông. Hơn nữa ông còn là người một lòng vì nước vì dân, vì nghĩa lớn mà quên đi mối thù nhà: ông không nghe lời cha giành lại ngai vàng từ tay vua Trần, vậy nên được vua Trần nể trọng, tin tưởng, thường hỏi ý kiến ông về những việc đại sự quốc gia. Ông mất vào ngày 20/8 âm lịch.

Sinh thời, do công lao lớn của mình ông được vua Trần phong là Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương hay là Đức Thượng Từ. Vua Trần Anh Tông ( xét về thứ bậc thì vừa là cháu lại là cháu rể của ông, vì vua lấy Cô Bé Cửa Suốt_Tĩnh Huệ Công Chúa tức là cháu gái của ông) phong ông là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương (tước hiệu này nếu xét theo thời đại của chúng ta thì sẽ là: Ủy viên bộ chính trị, bí thư quân ủy trung ương, Nguyên Súy, Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Sau này , khi mất đi tên tuổi ông vẫn vang lừng không chỉ trong Việt Nam mà còn lan ra toàn thế giới (ông là một trong số 10 vị tướng tài ba nhất trên thế giới, cùng với các vị như Nã Phá Luân (Napoleon), Thành Cát Tư Hãn... là những người có ý nghĩa to lớn với lịch sử thế giới ), người ta tôn làm Đức Thánh Trần. Còn trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường tôn danh ông là Đức Thánh Ông Trần Triều hay ngắn gọn hơn là Đức Ông Trần Triều.

Nếu một người có căn số hầu các giá nhà Trần thì giá Đức Ông có thể là giá mở khăn đầu tiên (vì Tam Tòa Thánh Mẫu không tung khăn), tuy nhiên cũng khá hiếm khi có người hầu về Đức Ông mà chỉ khi đại sự cần thỉnh ông về để trừ tà sát quỷ thì mới hầu ông (vì theo quan niệm cổ: “bóng” Đức Ông khá nặng nên không phải đồng cựu đã đội lệnh nhà Trần thì không thể hầu được) hoặc khi đại tiệc mở phủ thường thỉnh ông về chứng đàn Trần Triều (gồm voi, ngựa, thuyền rồng, tráp áo...) hoặc đồng mới tạ phủ và làm lễ đội lệnh nhà Trần. Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ, thêu rồng và hổ phù (có một số nơi hầu ông, chân đi hia, đầu đội mũ trụ), có thể mặc áo choàng bên ngoài, một số vùng hầu ông thường múa thanh đao. Khi về đồng, Đức Thánh Ông thường làm phép để sát quỷ trừ tinh (điều này chỉ có đúng đồng nhà Trần, có đội lệnh mới có thể làm như thế khi hầu ông) đó là: “lên đai thượng”nghĩa là cầm dải lụa đỏ thắt cổ (khi thắt vào cổ, mặt người hầu thường bạnh ra, đỏ,thì thế mới là thật đồng), lúc này người hầu dâng phải khéo léo móc một ngón tay vào dây thắt cổ để cho dãn bớt (vì dù là thật đồng nhưng Đức Thánh Ông chỉ giáng li giáng lai trên đầu đồng);“rạch lưỡi” nghĩa là dùng con dao hay vật nhọn rạch vào lưỡi người hầu để lấy máu (gọi là Đức Ông ban “dấu mặn”) sau đó phun ra tờ giấy phù hoặc rượu, có người xin giấy phù mang về để hộ thân trừ tà, có người bị tà mà quấy nhiễu lại xin rượu có máu, uống để trục tà; ngoài ra còn có uống dầu sôi, nung nóng bàn cuốc rồi đặt chân lên… Tuy nhiên, hiện nay, các lối hầu cổ như vậy đã ít dần, chỉ còn một số người khi hầu Đức Đại Vương Trần Triều là có thể làm như vậy. Làm như thế người ta gọi là làm phép nhà Trần ra uy, vậy nên văn hát giá Đức Thánh Ông Trần Triều có một số đoạn như:

tam toà thánh mẫu


Tứ phủ” là từ để chỉ các loại điện Mẫu trong tín ngưỡng thờ tự dân gian vốn có từ rất lâu đời, nay đang tồn tại và phát triển tại các làng xã, các nhà tư (điện Mẫu tư gia), hình thành nên loại hình điện thần trong nhiều khuôn viên kiến trúc khác nhau.
Điện thần là một kiến trúc độc lập giành riêng cho việc thờ Mẫu Tứ Phủ, được vinh danh là các ngôi đền thờ Mẫu ngoài Mẫu thần theo thiết chế Nho giáo.
Điện thần là một kiến trúc nhỏ trong khuôn viên chùa làng, hình thành nên cấu trúc đặc biệt trong chùa “Tiền Phật, hậu Mẫu” (ban thờ Phật phía trước theo hướng chùa, ban thờ Mẫu phía sau, nằm trên cùng trục thần đạo, nhưng ngược hướng).
Điện thần là kiến trúc độc lập trong tổng thể khuôn viên nhà chùa, thường gặp ở hầu hết các chùa trong nhiều làng xã ở Vĩnh Phúc hiện nay.
Điện Mẫu là một kiến trúc nhỏ độc lập trong khuôn viên của một gia đình ở thôn xóm mà chủ nhân là các ông đồng, bà đồng, những người có “căn” với loại hình tín ngưỡng về Mẫu Tứ Phủ, về các bà Chúa, ông Hoàng, là những nhân vật trong nội dung điện thần về Mẫu. ở trường hợp này, khi mới khởi nghiệp, các ông đồng, bà đồng thường dễ dãi ép điện Mẫu vào gian chái nhà ở, trong khi ấy gian giữa nhà chính đường có bàn thờ gia tiên.
Trong các bộ phận kiến trúc “điện Mẫu” nêu trên, thường tại đó được bài trí ban thờ “Mẫu Tứ Phủ”. Vậy thì, Mẫu Tứ Phủ là gì mà lại được nhiều người tôn sùng như thế?
Mẫu Tứ Phủ xuất phát là một tín ngưỡng thờ âm - Dương. Biểu hiện cụ thể là thờ Mẹ, thờ Cha. Mẹ, Cha là hai khái niệm về âm dương. Sự hoà hợp âm dương để sinh ra muôn loài, trong tư duy “Dương sinh - âm thành”: Cha sinh ra, Mẹ nuôi dưỡng. Cụ thể:


- Mẹ là: Một tư duy về bốn miền vũ trụ. ở đó mỗi miền có một nữ thần cai quản ở vị trí cao nhất, được suy tôn là Mẹ. Chữ Hán Việt đọc là Mẫu.
Có Mẹ cai quản vùng trời, được gọi là Mẫu đệ nhất Thượng Thiên.
Mẹ cai quản miền núi rừng, được gọi là Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn.
Mẹ cai quản miền sông bể được gọi là Mẫu đệ tam thuỷ cung. Gọi nôm là Mẫu Thoải (do chữ Thuỷ mà ra).
Mẹ cai quản miền đất đai được gọi là Mẫu đệ tứ địa Phủ.
Trong tâm thức dân gian, các “Mẹ” (Mẫu) đó đều thuộc dòng các tiên nữ.
Cha là vua cha Bát Hải động đình, thuộc dòng rồng, là long vương ở dưới nước, thuỷ cung.
Đây là một tích hợp văn hoá cha Rồng - mẹ Tiên, hồi cố (hoặc là hiện thân) của huyền thoại Lạc Long Quân - âu Cơ, vị thuỷ tổ khai sinh dòng Bách Việt, trong đó Lạc Việt và âu Lạc là lớp dân cư (tộc người) Việt cổ, Việt Nam. Đó là do đã tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên. Một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng của dân tộc Việt.
Mẫu Tứ Phủ được hình thành trước hết xuất phát từ tín ngưỡng thờ nữ thần trong dân gian phạm vi ảnh hưởng là ở làng xã, hình thành nên các nữ thần điện (tức là điện thờ các nữ thần). Từ thần điện các nữ thần, không gian văn hoá tâm linh vượt ra ngoài làng xã, cộng cảm với niềm ao ước xa xôi, bao quát không gian vũ trụ, về sự sinh thành đang có nhu cầu một sự quy tụ. Sự quy tụ ấy để thế gian gửi gắm niềm tin và hi vọng, ấy là một Bà Mẹ. Bà Mẹ ở muôn nơi: ở trên trời, ở dưới đất, ở bốn phương, nghĩa là ở khắp mọi miền của đất nước được bao bọc. Từ chữ “Mẹ”, đến chữ “Mẫu” (âm Hán Việt) được định hình, được khái quát hoá, mang ý nghĩa thiêng liêng về nguồn cội.
Con người từ khi xuất hiện, đã cần có những nhu cầu vật chất để duy trì sự sống. Cùng với sự phát triển của ý thức, của tư duy thì cái ăn được quy về vị trí thứ nhất của sự sống theo trình tự: ăn, mặc và ở.
Người nguyên thuỷ dựa vào phương thức săn bắt hái lượm để đảm bảo cái no. Dùng vỏ cây để làm quần áo mặc để bảo toàn cái ấm. Dùng cây cao làm nhà ở để chống thú dữ. Trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình chế độ tư hữu và nhà nước”, F.Engels đã chỉ rõ: ít nhất con người còn sống trên cây một phần, thì mới có thể giải thích được rằng họ có thể sinh tồn cùng thú dữ.
Cây rừng cho quả ăn, cho áo mặc, cây rừng che chở con người, từ đó một khái niệm về một bà “Mẹ Dưỡng” xuất hiện, đó là bà mẹ cây (hay “Mẹ rừng”), đi vào tâm thức:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Cây và Rừng trong tổng thể không gian miền thượng du (miền núi), làm nên một tư duy huyền thoại về bà mẹ Rừng xuất hiện, cùng một ý nghĩa với câu ngạn ngữ đã được Nho hoá: “tam mộc thành sâm” với nghĩa: Một cây không nên được rừng, chứ 3 cây gộp lại thì đủ nên được rừng.
Việc thờ Mẫu mang tính chất là thờ Mẹ Cây Rừng hiện nay còn thấy rõ nét ở nhiều nơi, và đó là xuất xứ của Mẫu Thượng Ngàn.
Thượng Ngàn của tỉnh Vĩnh Phúc là dãy Tam Đảo, dãy núi chủ sơn thuộc đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Bà Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo, cũng có xuất xứ từ bà Mẹ Rừng, vì vậy triều đình phong chức tước cho bà là Tam đảo sơn trụ Quốc Mẫu đại vương. Chữ Trụ có bộ mộc là cây, là sự thừa nhận ý nghĩa của rừng “Tam mộc sâm đình”, một sự thờ Mẫu ban đầu là Mẫu Sơn Lâm, tức Mẫu Thượng Ngàn.
Vậy, Bà Mẹ rừng hay Mẫu Thượng Ngàn là hệ Mẫu sớm nhất trong hệ Mẫu Tứ Phủ về sau, có ở Vĩnh Phúc.
Chính vì vậy, mà cho đến nay, trong một số điện Mẫu ở làng xã Vĩnh Phúc, trên Mẫu điện, vừa có tượng Quốc Mẫu Tây Thiên theo thiết chế thờ thần, có tàn che và được tôn vinh là Mẫu Mẹ (Đền Đại Lữ thờ Quốc Mẫu Tây Thiên được gọi là Đền Mẹ). ở ban dưới có sự tịnh dung ba pho tượng Tam Toà Thánh Mẫu. Có thể dẫn chứng cụ thể:
- Trong khuôn viên chùa Vàng làng Hoàng Đan, huyện Tam Dương. Tên chùa là “Kim Phúc tự” có lập một điện Mẫu riêng, gồm có Mẫu Tây Thiên và hệ Mẫu Tứ Phủ.
Hàng trên là tượng Quốc Mẫu Tây Thiên - Lăng Thị Tiêu, tượng có tàn che theo thiết chế thờ “thần”.
Hàng dưới là 3 pho tượng Tam Toà Thánh Mẫu gồm:
ở giữa: Mẫu Thượng Thiên. Y phục màu đỏ, bên trên treo nón Mẫu màu đỏ.
Bên phải: Mẫu Thượng Ngàn. Y phục màu xanh, bên trên treo nón Mẫu màu xanh.
Bên trái: Mẫu Thoải (Thuỷ). Y phục màu trắng, bên trên treo nón Mẫu màu trắng.
- Điện Mẫu trong khuôn viên chùa Linh Cảm làng Đan Trì xã Hoàng Đan, huyện Tam Dương, bài trí một pho tượng Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu, cùng hàng một pho Sư Tổ ở bên phải. Đó là sự bài trí thờ tự của chùa cũ tồn tại đến trước năm 2005, là năm tu bổ lại chùa.
Năm 2008, lập 3 gian điện Mẫu mới. Sự bài trí có thay đổi, theo sơ đồ vẽ tại chỗ hiện nay:

- Điện (Đền) Mẫu trong khuôn viên chùa Hà Tiên, thành phố Vĩnh Yên. Nguyên bài trí thờ Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu.
Nay xây mới ngôi điện Mẫu trong chương trình tôn tạo chùa. Bài trí thờ Mẫu được chia làm hai ban:
+ Nội cung (cung trong): Bài trí tượng Quốc Mẫu trang trọng đặt trong khám thờ, vàng son lộng lẫy. Đây là pho tượng mới tạo, có biển chỉ dẫn tiếng Việt là Quốc Mẫu (Tây Thiên).
Đó cũng là phương thức thờ tự theo thiết chế thờ thần Tượng Mẫu thay bài vị. Biển đề thay cho thánh tâm bài vị.
Hai bên cũng có tượng Cậu, tượng Cô, phảng phất như thờ Quốc Mẫu Tây Thiên núi Tam Đảo.
+ Ngoại cung (cung ngoài): Ngăn cách bởi bức tường gỗ, có hai cửa tả hữu để thông hai cung.
Trên ban ở cung ngoài, bài trí thờ tự một điện Mẫu, gồm 3 hàng tượng:
- Hàng trên cùng: Ba pho tượng Mẫu đặt toạ lạc trong khám thờ.
Giữa: Mẫu Thượng Thiên. Y phục sắc đỏ.
Bên trái: Mẫu Thượng Ngàn. Y phục sắc xanh.
Bên phải: Mẫu Thoải (Thuỷ). Y phục sắc trắng.
- Hàng giữa: Năm vị quan lớn (ngũ vị tôn ông). Đều đội mũ cánh chuồn. Y phục cũng sắc đỏ.
- Hàng thứ 3: Hàng các ông Hoàng, đầu đội khăn xếp sắc đỏ.
Giữa: ông Hoàng Cả (đệ nhất). áo sắc đỏ.
Bên phải: ông Hoàng Đôi (đệ nhị). áo sắc xanh.
Bên trái: ông Hoàng Bơ (đệ tam). áo sắc trắng.
Điểm qua như vậy, cả ba nơi thờ tự kể trên, đều thuộc địa hạt huyện Tam Dương đời Lê Cảnh Hưng (1740-1786), là vùng đồi quy tụ nhiều di tích thờ Quốc Mẫu Tây Thiên núi Tam Đảo, cũng là miền đồi rừng nơi xuất phát thờ tự mẫu rừng thời sơ sử.
Quốc Mẫu Tây Thiên được tôn làm Mẫu Mẹ: Mẹ Cây - Mẹ Rừng.
Một bà mẹ cây - mẹ rừng theo thiết chế thờ thần Nho giáo.
Từ đây lại cũng có một Bà Mẫu (Mẹ) - Thượng Ngàn, song song cai quản miền núi rừng trong hệ Mẫu Tứ phủ, bắt đầu một thiết chế ảo trong điện Mẫu.
Để rồi khi xã hội phát triển, người Việt cổ tiến xuống khai thác vùng đồng bằng, sống bằng nghề cấy trồng cây lúa nước, thì cây lúa, hạt gạo trở thành thức ăn chính nuôi sống con người.
Có 2 yếu tố để cây lúa sinh sống và phát triển.
Thứ nhất: Là đất trồng.
Thứ hai: Là nước tưới.
Cũng như sự tư duy về một Bà Mẹ Cây Rừng, người Việt cổ đã hình tượng ngay cùng một giai đoạn nên hai bà mẹ đặc trưng cho một phương thức sản xuất mới được hình thành:
Mẹ Đất: Làm nên một tư duy về Mẫu Địa.
Mẹ Nước: Làm nên một tư duy về Mẫu Thuỷ (còn gọi là Mẫu Thoải).
Hai Bà Mẹ này cùng xuất hiện sau Mẫu Thượng Ngàn, và gia nhập vào hàng ngũ Mẫu được tôn thờ, xuất xứ từ nghề nông trồng cây lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ.
Cây lúa đã có đất để nảy mầm, bám rễ. Có nước để phát triển, sinh sôi.
Tuy nhiên nước vì đâu mà có, thì con người lại nảy sinh một tư duy mới, đòi hỏi sự giải đáp.
Có một cuộc sống vật chất no đủ, con người trở nên có cuộc sống tinh thần phong phú. Các nhận thức về sự chuyển vận của thời tiết, của vũ trụ như ngày đêm, mưa và nắng, sấm, chớp, bão, dông… người ta quy tụ về một đấng thần linh ở trên cao. Đó là bầu trời, chứa đựng mọi sự thay đổi trong đó.
Một tư duy về vị Mẫu sản sinh ra các quy luật vận động sinh ra nước từ trên cao trút xuống, làm cho con người sống được, cây cối xanh tốt được, cây lúa cho hạt thóc, hạt gạo… Mẫu từ trên cao ra đời. Trên cao chính là bầu trời. Một tư duy về vị Mẹ Trời (Mẫu Thiên) xuất hiện, rồi cũng gia nhập vào hàng Mẫu được tôn thờ.
Như vậy, qua sự phát triển của tư duy, một phức hệ Mẫu xuất hiện bảo trợ cho con người nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, mà Vĩnh Phúc ngày nay toạ lạc ngay ở phần đỉnh của đồng bằng châu thổ ấy.
Bốn Mẫu, tuy có quá trình xuất hiện trong tư duy của con người khác nhau, song đều được xếp theo thứ tự bằng sự quan trọng mùa vụ của cây lúa nước.
- Thứ nhất: Mẫu Thiên. Còn gọi là Mẫu Thượng Thiên hoặc Mẫu Đệ Nhất.
- Thứ hai: Mẫu Thượng Ngàn. Còn gọi là Mẫu Đệ Nhị.
- Thứ ba: Mẫu Thuỷ. Còn gọi là Mẫu Thoải, hoặc Mẫu Đệ Tam.
- Thứ tư: Mẫu Địa. Còn gọi là Mẫu Đệ Tứ hoặc Địa Tiên Thánh Mẫu.
Hợp lại thành “Tứ phủ Thánh Mẫu”.
Sở dĩ có sự hoán đổi như vậy, vì Mẫu Tứ Phủ đã bị trật tự của Nho giáo can thiệp. Với Nho giáo, thì Trời là đức chí tôn, là vị hoàng đế cao hơn hết trong mọi tinh thể của vũ trụ. ở trong quốc gia Đại Việt thì Hoàng đế là con trời, mệnh danh là “Thiên tử”. Cho nên bất cứ cái gì thuộc về Trời, thì đều đứng ở bậc cao nhất. Mẫu Thượng Thiên do vậy, xếp vào hàng thứ nhất trong hàng Mẫu. Trong bài trí thờ tự, tượng Mẫu Thượng Thiên bao giờ cũng xếp ở giữa (trung tâm) với những điện chỉ thờ có 03 pho tượng Mẫu.
Điện Mẫu trong khuôn viên chùa Thần Tiên, phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên, có thời gian tạo lập ngang với thời gian xây dựng ngôi chùa, khởi lập từ thế kỉ XIII, hoàn tất thế kỉ XVIII, với 2 cây tháp vào niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) triều Lê (nay còn 1 cây ở bên đầu hồi trái chùa chính). Là những pho tượng Mẫu vào hàng cổ nhất ở Vĩnh Phúc hiện nay. Có thể có trước cả pho tượng Mẫu Thượng Thiên còn ở chùa Vĩnh Phúc (chùa Am) thôn Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch. Vì ngôi chùa kiến trúc bị tiêu huỷ trong thời Pháp xâm chiếm, nhân dân chỉ còn cất giấu được một số tượng cổ, nay đem bày ở nhà điện mới xây dựng lại.

Thứ Ba, 14 tháng 12, 2010

chữa bệnh tâm linh


      kính thưa các đạo hữu đồng đạo chữa bệnh tâm linh là một đề tài đang được quan tâm tới trong xã hội hiện đại chúng ta bây giờ.khoa học càng tiến xa thì tâm linh càng nổi trội, để chứng minh một điều dù cho ở một thời đại nào ,tâm linh con người luôn là một sức mạnh to lớn cho toàn xã hội ,cũng như cho riêng mỗi một bản thân chúng ta .có rất nhiều hiện tượng tâm linh kỳ bí ,khả năng của con người thật là vô hạn,tâm linh huyền bí luôn xuyên suốt qua các thời kỳ kim cổ đến nay,và luôn phát triển mạnh mẽ.
       Có lẽ tôi và các bạn cũng điều có 1 lần trải qua và chứng kiến những hiện tượng tâm linh hiện hữa khó có lời giải thích .thật hay giả có hay không chỉ tôi và các bạn biết ,hiện nay việt nam ta có nhiều nơi tâm linh nổi lên những hiện tượng là như xuất hiện các nhà ngoại cảm.các hiện tượng có khả năng tiên đoán vận mệnh ,và điều quan tâm cho xã hội đó là sự xuất hiện của lĩnh vực chữ bệnh bàng tâm linh,đã mang lại nhiều sự bất ngờ cho nhân loại.
        hiện tượng chữa bệnh của các nhà ngoại cảm đã được nhà nước cho đem ra nghiên cứa để áp dụng cho dân chúng,câu lý giải chỉ tìm được một phần nào của hiện tượng tâm linh này.vì nếu tâm linh mà lý giải được hết thì không còn gọi gì là tâm linh nữa.
     một phương pháp chữa bệnh tâm linh bằng bùa chú tôi xin giới thiệu cho tất cả các bạn để chúng ta thâm khẩo đánh giá ,và có thêm niềm tin cho cuộc sống ,bằng năng lực tâm linh bằng sự huyền diệu của bùa chú ,công năng của 10 phương chư phật cùng tất cả các bậc tiền bối được thể hiện qua các thần chú ,các loại bùa thần để lại cứu giúp trị bệnh cho muôn dân
      c                               
                                           bản Đền hoàng thiên thánh mẫu
                                                     
                                                           kinh mẫu
                                            chẳng quản nhân gian tục luỵ phiền
                                            mẹ về dạy dỗ hết căn nguyên
                                            dũa mài uốn nắn tu rèn luyện
                                            giây phút ngày giờ sáng tối đêm
                                             bể khổ mênh mông xin cố vượt 
                                             núi cao chót vót quyết chèo lên
                                             tấm lòng vàng đá không phai nhạt
                                            con khá nghe lời ấy mới lên
                                       
sứ giả mẫu hoàng  :dd :0989997620-0972433018

tôn vinh thánh việt

Đạo Mẫu Việt Nam
Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đạo Mẫu được thờ tại các đền, phủ. Ở miền Bắc Việt Nam, hầu hết các chùa cũng có bàn thờ Mẫu (Tiền Phật, hậu Mẫu).
Lịch sử và phát triển

Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở. Có người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian - những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
Ngô Đức Thịnh phân chia sự phát triển của đạo Mẫu thành các giai đoạn:
1. Thờ các nữ thần thiên nhiên riêng biệt. Các nữ thần này là các tinh thần thiên nhiên và không có đặc điểm của con người, đặc biệt là đặc điểm của người mẹ.
2. Thờ các Thánh Mẫu. Các nữ thần này đã có đặc điểm của người mẹ. Ví dụ Mẹ Âu Cơ, mẹ của dân tộc Việt.
3. Thờ Thánh Mẫu tam phủ-tứ phủ. 3 hay 4 "Phủ" ở đây không phải là số đơn vị xây dựng như "đền", "phủ", mà là 3 hay 4 thành tố của vũ trụ: Trời (Thiên phủ), Đất (Địa phủ), Nước (Thủy phủ/ Thoải phủ), Núi rừng (Nhạc phủ).

Nghi lễ thờ cúng

Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.
Điều đó thể hiện trong các cầu nguyện và kinh lễ. Các bài kinh lễ là các bài hát về nhiều điều mà người ta mong muốn trong cuộc sống hàng ngày: thời tiết tốt cho mùa màng, sức khỏe cho mọi người, hạnh phúc, tiền tài, v.v.. Nội dung của các bài kinh lễ đơn giản và dễ hiểu, điều này rất khác so với nội dung kinh lễ các tôn giáo khác như Phật giáo hay Kitô giáo.
Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ (bà cốt), đôi khi mới do nam giới đảm nhận (ông đồng).
Các giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ. Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô,... Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn (hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.
Đạo Mẫu có hai dịp lễ hội quan trọng: "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ", kỷ niệm ngày mất của Đức thánh Trần (Cha) và Liễu Hạnh Công chúa (Mẹ). Ngoài ra, người đi lễ có thể đến các phủ đền vào các ngày mùng Một hoặc ngày Rằm (âm lịch) hàng tháng, dâng đồ cúng lễ để tạ ơn và cầu khấn.


Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.
Cho dù cuộc đời của bà được giải nghĩa theo cách nào, Liễu Hạnh đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh của phụ nữ. Bà tách mình ra khỏi Khổng giáo với quan niệm trọng nam khinh nữ. Bà nhấn mạnh vào hạnh phúc, quyền tự do đi lại và độc lập tư tưởng. Vừa được kính sợ vừa được yêu mến, các nguyên tắc của bà về trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt cũng đã gửi một thông điệp về sự bảo vệ và hy vọng vào công bằng xã hội cho nhân dân trong thời loạn lạc của các thế kỷ 17-19. Vừa là thần tiên vừa là người (con gái, vợ, mẹ), Liễu Hạnh chia sẻ vui buồn với những người trần tục. Bà được coi là vị thần cảm thông và độ lượng nhất. Bà trở thành một trong các vị thần của Đạo Mẫu và nhanh chóng được nâng lên vị trí quan trọng nhất, cai trị các vị thần ở dưới và thế giới con người.

Các vị thần khác của đạo Mẫu

Trong các đền thờ của Đạo Mẫu có nhiều vị thần được sắp xếp theo các thứ bậc. Đầu tiên là Ngọc Hoàng. Đây là vị thần tối cao và được đặt ở vị trí danh dự, nhưng lại ít được thờ cúng. Vị thần cao nhất của Đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Các vị khác được đặt tại các ban thờ tam phủ hoặc tứ phủ. Các Chư Linh của ban Tứ Phủ được phân chia như dưới đây:
Bảo Dân Hộ Quốc Thánh Mẫu (越國聖母)

Mẫu Âu Cơ (Thiên Phủ & Nhạc Phủ)
Mẫu Đệ Nhất (Thiên Phủ). Danh hiệu: Mẫu Liễu Hạnh
Mẫu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thượng Ngàn
Mẫu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thoải
Mẫu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Lê Mại Đại Vương
Phụ Vương Đại Thánh (越國聖父)

Lạc Long Quân (Thoải Phủ)
Bát Hải Long Vương (Thoải Phủ). Danh hiệu: Vua Cha
Trần Triều Hiển Thánh (陳朝顯聖)

Đức Thánh Trần. Danh hiệu: Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo - Tiết chế quốc công Hưng Đạo Đại vương)
Đệ Tam Ông Cửa Suốt - Con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương
Đệ Nhất Vuong Cô - Con gái thứ nhất của Hưng Đạo Vương
Đệ Nhị Vương Cô - Con gái thứ hai của Hưng Đạo Vương
Đức Thánh Phạm Danh hiệu: Phạm Ngũ Lão - Con rể của Hưng Đạo Vương
Cô Bé Cửa Suốt -cháu gái của Hưng Đạo Vương
Cậu Bé Cửa Đông-cháu trai của Hưng Đạo Vương
Các Vị Chúa Mường (山林嶽府占卜神婆)
là các vị Chúa Bà chuyên về đáp giải bói bốc. Nếu chỉ tính ba vị Chúa Bói thì gọi là "Tam Toà Chúa Bói."

Chúa Đệ Nhất Tây Thiên(Thiên Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ(Nhạc Phủ)
Chúa Đệ Tam Lâm Thao (Thoải Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Cà Phê(Địa Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương(Nhạc Phủ)
Chúa Long Giao(Nhạc Phủ)
Chúa Thác Bờ (Thoải Phủ)&(Nhạc Phủ)
Chúa Mọi(Nhạc Phủ)
Ngũ Vị Tôn Quan (五位神威尊官皇太子)
Trách nhiệm của ngũ vị này là giáng vào thanh đồng để bắt đầu "mở phủ" cho các giá đồng sau được theo vào người đồng.

Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.
Quan Đệ Nhị (Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là Âm Lịch mùng Ba tháng Ba. Châu văn ràng: Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống biển tâu về Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua thánh, Ông Quan là vị giám sát trước để đánh thuận xông pha. Mặc bào mầu xanh lá cây. Lúc lên giá này, ông cầm khăn phủ diện để minh giám hoàn cảnh.
Quan Đệ Tam (Quan Tam Phủ) là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỉ thế tà giới.
Quan Đệ Tứ (Quan Khâm Sai) là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu vàng.
Quan Đệ Ngũ (Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm cái thanh long đao to như của ông Quan Công của thời Tam Quốc.
Lục Phủ Tôn Ông (六府特臣尊官聖靈)

Đệ Nhất Vương Quan. Danh hiệu: Quan Điều Thất
Đệ Nhị Vương Quan. Danh hiệu: Quan Hoàng Triệu
Tứ Phủ Chầu Bà (四府十二位英靈公主)

Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)
Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa
Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa
Chầu Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Có người hầu là giá thứ ba, tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ
Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa
Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)

Chầu Năm (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa
Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vao Chầu Năm, tức là Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương
Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa
Chầu Bẩy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Tân La Công Chúa
Chầu Tám (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn
Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.

Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá
Chầu Mười(Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng
Chầu Mười Một
Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa
Chầu Bà Ngũ Hành (五行聖婆神女)

Đệ Nhất Chầu Bà Kim Tinh Thần Nữ
Đệ Nhị Chầu Bà Mộc Tinh Thần Nữ
Đệ Tam Chầu Bà Thuỷ Tinh Thần Nữ
Đệ Tứ Chầu Bà Hoả Phong Thần Nữ
Đệ Ngũ Chầu Bà Thổ Đức Thần Nữ
Thập Vị Thủy Tế (十位八海龍兒皇子王爺)

Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Quận/ Lê Lợi
Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
Ông Hoàng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai
Ông Hoàng Năm
Ông Hoàng Sáu
Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà
Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu:Ông Bát Quốc, là một ông quan gốc người Hán đóng quân ở Lào Cai
Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Cờn Môn
Ông Chín Thượng(Nhạc Phủ)
Ông Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ
Tứ Phủ Tiên Cô (四府山莊神領聖姑)

Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)
Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn(Nhạc Phủ)
Cô Đôi Thượng(Nhạc Phủ)
Cô Đôi Cam Đường(Nhạc Phủ) quê cô ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai
Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ
Cô Tư (Địa Phủ)
Cô năm Suối Lân(Nhạc Phủ)
Cô sáu Sơn Trang(Nhạc Phủ)
Cô bảy Tiên la(Nhạc Phủ)
Cô Tám đồi chè(Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục
Cô Chín Sòng Sơn(Thiên Phủ)
Cô Chín Thượng(Nhạc Phủ)
Cô Chín Thoải (Thoải Phủ)
Cô Mười Đồng Mỏ(Nhạc Phủ)
Cô Bé Đông Cuông(Nhạc Phủ)
Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)
Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)
Cô Bé Thoải(Thoải Phủ)
Cô Bé Đen(Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc
Thập Vị Triều Cậu (十位超靈少聖舅)

Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)
Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
Cậu Hoàng Bé(Nhạc Phủ)
Quan Ngũ Hổ (五方神虎威靈)

Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (東方甲乙木德青虎威靈)
Nam Phuong Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan (南方丙丁火德赤虎威靈)
Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊已土德黃虎威靈)
Tay Phuong Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (西方庚辛金德白虎威靈)
Bắc Phuong Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan (北方壬癸水德黑虎威靈)
Ông Lốt (兩位青蛇白蛇大神將軍)

Thanh Xà Đại Tướng Quân
Bạch Xà Đại Tướng Quân
Giải thích về sự có mặt của cả nam thần lẫn nữ thần trong các vị thần của Đạo Mẫu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng: Do xã hội Việt Nam cổ xưa theo chế độ mẫu hệ, nên phụ nữ có vị thế quan trọng trong xã hội. Tuy nhiên, người phụ nữ chỉ có được quyền lực khi họ đã kết hôn. Do đó, nam giới cũng được xem là có vai trò quan trọng trong cuộc sống, và họ cũng được thờ cúng.