Chầu lục cung nương được
gọi với nhiều danh hiệu khác như: Chúa Lục Cung Nương, Lục Cung Tiên Chúa, Lục
Cung Công Chúa, Đệ Lục Thánh Chầu, Chầu Lục, Chúa Bà Lục Cung... Ngài là vị
thánh đứng ngôi vị thứ sáu trong hàng tứ phủ Chầu Bà. Theo các bản văn chầu,
Chúa bà giáng sinh vào cửa nhà họ Trần vào ngày mồng mười tháng năm tại huyện
Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Ngài hóa thần vào ngày hai mươi tháng chín. Sau khi về
trời, Ngài sơ ý đánh rơi chén vàng khi dâng rượu Đức Vua Cha nên bị trắc giáng
xuống hạ giới với kỳ hạn mười lăm năm. Lần này, Chúa Bà giáng sinh vào nhà họ
Quách cũng tại Hữu Lũng , Lạng Sơn vào giờ Mão, ngày Mão, tháng Mão, năm Kỷ Mão.
Mãn hạn trắc giáng, Chúa bà hồi tiên, được sắc phong "Chầu Lục Cung Nương",
quyền hành cai quản sơn trang thượng ngàn. Đền thờ chính Chúa bà hiện nay là
"Lục Cung Linh Từ" thuộc thôn Chín Tư, xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng
Sơn. Chúa bà được tôn xưng là "Lục Cung Tiên Chúa" với quyền hành cai quản lục
cung - sáu viện (Lục cung chỉ các tiên nữ trên thượng giới. Trong triều đình
phong kiến xưa, người ta gọi các phi tần là lục cung) . Trong nghi lễ khai
phủ đại đàn (lễ mở phủ), Chúa bà thường là vị thánh cuối cùng chứng đàn và sang
khăn cho tân đồng. Theo quan niệm dân gian, mỗi thanh đồng có một vị Thánh cai
quản đầu đồng bản mệnh và số mệnh mỗi thanh đồng tương ứng với các vị thánh quản
cai. Theo quan niệm đó, người có căn mệnh "Chầu Lục" thường có khả năng làm đồng
thầy, mở phủ và chữa bệnh cho người đời. Người ta tin rằng, Chúa bà thường cho
lộc làm thầy, lộc buôn lộc bán lộc dọn quán bán hàng.... Cũng như các vị Thánh
khác, Chúa bà được quan niệm làmột vị thần có khả năng ban phúc giáng họa cho
trần thế
Tôn tượng Chúa Bà tại Lục Cung Linh
Từ
LỤC CUNG CÔNG CHÚA VĂN
Sắc phong Chầu Lục Cung
Nưong
Vốn dòng Trần Thị quê hương non
ngàn
Hữu Lũng giang là nơi cát
địa
Chín Tư ngàn tú khí là
nơi
Chúa Tiên vâng lệnh y
lời
Ở trong bệ ngọc, ra ngoài màn
loan
Đêm ấy xuống trần gian báo
mộng
Trần thị nưong tâm động bào
thai
Tháng năm giờ
tý mồng mười
Sinh ra Chúa Lục khác người trần
gian
Đôi thung huyên vui mừng hớn
hở
Khắp bản làng mừng rỡ bảo
nhau
Mới hay như ý sở
cầu
Sớm nâng niu ngọc, ngày chau chuốt
vàng
Chốn phòng loan đêm ngày dưỡng
dục
Đặt tên là Chầu Lục Cung
Nương
Ơn trời sao khéo phi
phương
Mặt huê hớn hở ,tính gương làu
làu
Vẹn một bầu nước trong leo
lẻo
Trách ông trăng già sao khéo vẩn
vơ
Vô tình ép uổng duyên
tơ
Hoa chưa kết nhụy trăng chưa tới
kì
Hoá tức thì đôi mươi tháng
chín
Giữa thu về xa lánh hồn
nương
Thung huyên buồn sầu thảm nhớ
thuơng
Sót xa tấc dạ ruột thường quặn
đau
Trải bấy lâu thiên đình sai
xuống
Nay đến ngày ,mãn hạn về
tiên
Nỗi lòng thưong nhớ thung
huyên
Dấu thiêng hiển tích trong miền Chín
Tư
Tục truyền lưu để ngàn
thu
Nhân dân thôn ấp còn thù giặc
nguyên
Xuân sang mở hội đua
thuyền
Nam thanh nữ tú cùng nhau đua
tài
Bất thường một sớm hôm
mai
Chầu lên đỉnh núi hoá thân tức
thì
Sắc ban phong vang lừng tám
cõi
Tiếng chầu ngàn chói lọi trời
nam
Trong đền tấp nập sửa
sang
Lối lên Sông Hoá lại càng thanh
tao
Vào năm Kỷ Mão anh
hào
Có Tiên Chúa Lục giáng vào thiên
thai
Trên núi Thái bốn mùa mát
mẻ
Dưới bản làng vượn hót oanh
ca
Nhớ xưa họ Quách lương
gia
Nhân từ có một hiền hòa không
hai
Vừa gặp buổi trang đài hội
yến
Chầu Lục vào dâng tiến kim
bôi
Trống rung chưa kịp dứt
hồi
Bỗng đâu Chầu Lục sảy rơi chén
vàng
Trên chín bệ Vua cha phật
ý
Nổi lôi đình truyền chỉ chiếu
ban
Kíp đầy Chầu xuống trần
gian
Mười lăm năm lẻ khải hoàn hồi
cung
Nhà họ Quách vốn dòng quốc
chỉ
Kết duyên lành Trần Thị Hồng
Mai
Vào năm kỷ mão tháng
hai
Ngày Mão giờ Mão Trang đài nở
hoa
Vẻ cốt cách da ngà tựa
tuyết
Bóng trăng tròn mặt
nguyệt như in
Mày ngài mắt phượng tóc
tiên
Môi son má phấn lại
thêm nõn nà
DỊ BẢN:
DỊ BẢN:
Sắc
phong Chúa Lục Cung Nưong
Vốn dòng lệnh tộc quê hương thượng ngàn
Huyện Hữu Lũng cao sơn vị thủy
Bắc Lệ ngàn tú khí chung linh
Nguyên xưa chầu chực đế đình
Vào tâu bệ ngọc ra trình Mẫu vương
Đêm ấy xuống trần gian báo mộng
Hoàng thị nương tâm động bào thai
Tháng năm giờ tý mồng mười
Sinh ra Chầu Lục tốt tươi lạ thường
Sinh ra Chầu Lục Cung Nương
Hình dong nhan sắc phi phương ai tày
Chốn phòng loan đêm ngày dưỡng dục
Ví so bằng vàng ngọc báu gia
Mỗi năm là một nõn nà
Nửa vầng trăng khuyết trăm hoa cài đầu
Má phấn dồi phau phau tựa tuyết
Diện lầu lầu vẻ nguyệt in hoa
Nhỡn tinh long lánh ngân hà
Da dường tựa tuyết tóc dà sở vân
Vẻ thanh tân dịu dàng cách điệu
Đóa phù dung uốn éo nhởn nhơ
Vẻ nào mà chẳng quá ưa
Hoa xuân mới nhú nguyệt thu đương tròn
Giá so bằng kim côn ngọc lệ
Màu sắc nào ai vẽ cho y
Phong tư ngôn hạnh dung nghi
Giá so Tống Tử ví bì Tề Khương
Da ngà vẻ ngọc phi phương
Đào huê lóng lánh tinh hương làu làu
Chảy qua cầu nước trong leo lẻo
Trách ông trăng già sao khéo vẩn vơ
Vô tình ép uổng lòng tơ
Hay đâu con tạo vẩn vơ thế này
Hẹn đúng ngày đôi mươi tháng chín
Cửa thung huyên xa lánh hồn thương
Chầu Lục ngài sầu thảm nhớ thuơng
Sót xa tấc dạ ruột thường quặn đau
Trải bấy lâu thiên đình sai xuống
Nay đến ngày ,mãn hạn quy tiên
Nỗi lòng thương nhớ thung huyên
Một lời tấu đối chỉ truyền phán ra
Giữ chữ hiếu ấy là tiết hạnh
Cho vui vầy thú cảnh lâm sơn
Trần gian ghi nhớ công ơn
Lập đền phụng sự khói hương ngạt ngào
Đền thờ trên đỉnh non cao
Trăm hoa đua sắc ngạt ngào toả hương
Sớm chiều khói toả mây tuôn
Chim kêu vượn hót hổ vờn sơn khê
Chim công lạc lối đi về
Dưới sông róc rách thuyền bè êm ru
Tục truyền lưu để ngàn thu
Nhân dân thôn ấp còn thù giặc Nguyên
Xuân sang mở hội đua thuyền
Nam thanh nữ tú cùng lên đua tài
Bất thường một sớm hôm mai
Cuồng phong gió giật mây trời tối đen
Ầm ầm giông tố nổi lên
Lục Cung tiên Chúa tựa tiên giáng trần
Đi lên đỉnh núi hoá thân
Lấy đôi hải sảo trước sân làm bằng
Tức thì lên tới Đồng Đăng
Bốn phương dạo gót gió trăng đi về
Có phen ngự lầu khuê võng thắm
Chốn quảng hàn cung cấm vào ra
Nhọc nhằn thay họ Quách lương gia
Nhân từ có một hiền hoà không hai
Vừa gặp buổi trang đài hội yến
Chầu Lục vào dâng tiến kim bôi
Trống rung chưa kịp dứt hồi
Bỗng đâu Chầu Lục sảy rơi chén vàng
Trên chín bệ Vua cha phật ý
Nổi lôi đình truyền chỉ chiếu ban
Kíp đầy Chầu xuống trần gian
Mười lăm năm ấy khải hoàn hồi cung
Nhà họ Quách vốn dòng quốc chỉ
Kết duyên lành Lã Thị Hồng Mai
Vào năm kỷ mão tháng hai
Ngày Mão giờ Mão Trang đài nở hoa
Vẻ cốt cách da ngà tựa tuyết
Bóng trăng tròn mặt nguyệt như in
Mày ngài mắt phượng tóc tiên
Môi son má phấn lại thêm nõn nà
Nhắc đến Chầu thêm mà thương nhớ
Lại căm thù giặc giữ Nguyên Mông
VĂN CHẦU LỤC CUNG NƯƠNG
Xuân Hinh
Chúa Lục Cung Nương sắc phong chúa Lục Cung Nương
Vốn dòng lệnh tộc khuê hương non ngàn
Ai lên tới Chín Tư châu thổ ngắm cảnh rừng thác đổ suối reo
Giở trang tích cũ Lê triều í ì ì i
Giở trang tích cũ Lê triều, Lục Cung Công Chúa mỹ kiều diễm hương
Nét đoan trang vẻ nhường mà ngọc tuyết, đôi mày ngài nửa khuyến vầng trăng
Trâm cài soi nước long lanh i ì ì i
Trâm cài soi nước long lanh, gót Tiên hải sảo cảnh rừng thênh thang
Hoa đua nở đầy ngàn tay hái, gùi trên vai nặng trái chín thơm
Rung rinh quảy lẵng đầu non i ì ì i
Rung rinh...quảy lẵng đầu non, vẳng nghe tiếng khướu véo von trên cành
Ô mấy đồng lá rừng chim oanh đang gọi bạn
Nhác trông lên cánh nhạn chập chờn, cuốc kêu gợi cảnh chiều hôm i ì ì i
Cuốc kêu...gợi cảnh chiều hôm, tiếng chim gõ kiến nỗi buồn bâng khuâng
Tiếng hổ gầm vang trong hang động, đàn báo hoa dạo lượn tìm mồi
Bầy nai ngơ ngác chân đồi i ì ì i
Bầy nai...ngơ ngác chân đồi, rừng thiêng thăm thẳm núi đồi thêm ghê
Con suối nhỏ xuôi về Hữu Lũng, đàn cá vàng bơi lượn dưới khe
Đêm đêm hổ báo chầu về i ì ì i
Bài sai thập nhị Tiên nàng
Khăn hồng áo thắm dịu dàng bước ra
Cô nàng cả dâng bông dâng hoa í i a í à à a
Thiều quang...thiều quang sáng tỏ lưng trời, một bầu xuân sắc tốt tươi rườm rà
Trên ngàn...trên ngàn lắm quả nhiều hoa, Chầu bà đốt đuốc vào ra sớm chiều
Thổ mây nặng trĩu lưng đeo í i i í ì ì a
Phép Tiên biến hóa thần thông, Mẫu sai Chầu trấn cửa rừng Chín Tư
Chầu thương dân canh khuya biến hiện, áo chàm xanh thêu lượn nét hoa í i í i ì a
Nửa đêm gà gáy canh tàn, cất cao tiếng hú hiện ra giữa rừng
Hô thần chú bỗng dưng núi chuyển, mà các thửa ngản bật tiếng muôn kêu
Tà ma phách tán hồn xiêu í i í i ì a
Tà ma phách tán hồn xiêu, những điều ác thú sợ đều ẩn thân
Để cho biết Lục Cung Công Chúa, phép sơn trang đức tổ ban truyền
Phép Tiên biến lá thành thuyền í i í i ì a
Phép Tiên biến lá thành thuyền, mười hai thổ mán đôi bên cầm chèo
Tiếng nhịp đẩy hò reo bắt lái, Chầu tới đâu cảnh lại thêm tươi í i a í à à a
Xe loan thánh giá hồi cung
Vốn dòng lệnh tộc quê hương thượng ngàn
Huyện Hữu Lũng cao sơn vị thủy
Bắc Lệ ngàn tú khí chung linh
Nguyên xưa chầu chực đế đình
Vào tâu bệ ngọc ra trình Mẫu vương
Đêm ấy xuống trần gian báo mộng
Hoàng thị nương tâm động bào thai
Tháng năm giờ tý mồng mười
Sinh ra Chầu Lục tốt tươi lạ thường
Sinh ra Chầu Lục Cung Nương
Hình dong nhan sắc phi phương ai tày
Chốn phòng loan đêm ngày dưỡng dục
Ví so bằng vàng ngọc báu gia
Mỗi năm là một nõn nà
Nửa vầng trăng khuyết trăm hoa cài đầu
Má phấn dồi phau phau tựa tuyết
Diện lầu lầu vẻ nguyệt in hoa
Nhỡn tinh long lánh ngân hà
Da dường tựa tuyết tóc dà sở vân
Vẻ thanh tân dịu dàng cách điệu
Đóa phù dung uốn éo nhởn nhơ
Vẻ nào mà chẳng quá ưa
Hoa xuân mới nhú nguyệt thu đương tròn
Giá so bằng kim côn ngọc lệ
Màu sắc nào ai vẽ cho y
Phong tư ngôn hạnh dung nghi
Giá so Tống Tử ví bì Tề Khương
Da ngà vẻ ngọc phi phương
Đào huê lóng lánh tinh hương làu làu
Chảy qua cầu nước trong leo lẻo
Trách ông trăng già sao khéo vẩn vơ
Vô tình ép uổng lòng tơ
Hay đâu con tạo vẩn vơ thế này
Hẹn đúng ngày đôi mươi tháng chín
Cửa thung huyên xa lánh hồn thương
Chầu Lục ngài sầu thảm nhớ thuơng
Sót xa tấc dạ ruột thường quặn đau
Trải bấy lâu thiên đình sai xuống
Nay đến ngày ,mãn hạn quy tiên
Nỗi lòng thương nhớ thung huyên
Một lời tấu đối chỉ truyền phán ra
Giữ chữ hiếu ấy là tiết hạnh
Cho vui vầy thú cảnh lâm sơn
Trần gian ghi nhớ công ơn
Lập đền phụng sự khói hương ngạt ngào
Đền thờ trên đỉnh non cao
Trăm hoa đua sắc ngạt ngào toả hương
Sớm chiều khói toả mây tuôn
Chim kêu vượn hót hổ vờn sơn khê
Chim công lạc lối đi về
Dưới sông róc rách thuyền bè êm ru
Tục truyền lưu để ngàn thu
Nhân dân thôn ấp còn thù giặc Nguyên
Xuân sang mở hội đua thuyền
Nam thanh nữ tú cùng lên đua tài
Bất thường một sớm hôm mai
Cuồng phong gió giật mây trời tối đen
Ầm ầm giông tố nổi lên
Lục Cung tiên Chúa tựa tiên giáng trần
Đi lên đỉnh núi hoá thân
Lấy đôi hải sảo trước sân làm bằng
Tức thì lên tới Đồng Đăng
Bốn phương dạo gót gió trăng đi về
Có phen ngự lầu khuê võng thắm
Chốn quảng hàn cung cấm vào ra
Nhọc nhằn thay họ Quách lương gia
Nhân từ có một hiền hoà không hai
Vừa gặp buổi trang đài hội yến
Chầu Lục vào dâng tiến kim bôi
Trống rung chưa kịp dứt hồi
Bỗng đâu Chầu Lục sảy rơi chén vàng
Trên chín bệ Vua cha phật ý
Nổi lôi đình truyền chỉ chiếu ban
Kíp đầy Chầu xuống trần gian
Mười lăm năm ấy khải hoàn hồi cung
Nhà họ Quách vốn dòng quốc chỉ
Kết duyên lành Lã Thị Hồng Mai
Vào năm kỷ mão tháng hai
Ngày Mão giờ Mão Trang đài nở hoa
Vẻ cốt cách da ngà tựa tuyết
Bóng trăng tròn mặt nguyệt như in
Mày ngài mắt phượng tóc tiên
Môi son má phấn lại thêm nõn nà
Nhắc đến Chầu thêm mà thương nhớ
Lại căm thù giặc giữ Nguyên Mông
VĂN CHẦU LỤC CUNG NƯƠNG
Xuân Hinh
Chúa Lục Cung Nương sắc phong chúa Lục Cung Nương
Vốn dòng lệnh tộc khuê hương non ngàn
Ai lên tới Chín Tư châu thổ ngắm cảnh rừng thác đổ suối reo
Giở trang tích cũ Lê triều í ì ì i
Giở trang tích cũ Lê triều, Lục Cung Công Chúa mỹ kiều diễm hương
Nét đoan trang vẻ nhường mà ngọc tuyết, đôi mày ngài nửa khuyến vầng trăng
Trâm cài soi nước long lanh i ì ì i
Trâm cài soi nước long lanh, gót Tiên hải sảo cảnh rừng thênh thang
Hoa đua nở đầy ngàn tay hái, gùi trên vai nặng trái chín thơm
Rung rinh quảy lẵng đầu non i ì ì i
Rung rinh...quảy lẵng đầu non, vẳng nghe tiếng khướu véo von trên cành
Ô mấy đồng lá rừng chim oanh đang gọi bạn
Nhác trông lên cánh nhạn chập chờn, cuốc kêu gợi cảnh chiều hôm i ì ì i
Cuốc kêu...gợi cảnh chiều hôm, tiếng chim gõ kiến nỗi buồn bâng khuâng
Tiếng hổ gầm vang trong hang động, đàn báo hoa dạo lượn tìm mồi
Bầy nai ngơ ngác chân đồi i ì ì i
Bầy nai...ngơ ngác chân đồi, rừng thiêng thăm thẳm núi đồi thêm ghê
Con suối nhỏ xuôi về Hữu Lũng, đàn cá vàng bơi lượn dưới khe
Đêm đêm hổ báo chầu về i ì ì i
Bài sai thập nhị Tiên nàng
Khăn hồng áo thắm dịu dàng bước ra
Cô nàng cả dâng bông dâng hoa í i a í à à a
Thiều quang...thiều quang sáng tỏ lưng trời, một bầu xuân sắc tốt tươi rườm rà
Trên ngàn...trên ngàn lắm quả nhiều hoa, Chầu bà đốt đuốc vào ra sớm chiều
Thổ mây nặng trĩu lưng đeo í i i í ì ì a
Phép Tiên biến hóa thần thông, Mẫu sai Chầu trấn cửa rừng Chín Tư
Chầu thương dân canh khuya biến hiện, áo chàm xanh thêu lượn nét hoa í i í i ì a
Nửa đêm gà gáy canh tàn, cất cao tiếng hú hiện ra giữa rừng
Hô thần chú bỗng dưng núi chuyển, mà các thửa ngản bật tiếng muôn kêu
Tà ma phách tán hồn xiêu í i í i ì a
Tà ma phách tán hồn xiêu, những điều ác thú sợ đều ẩn thân
Để cho biết Lục Cung Công Chúa, phép sơn trang đức tổ ban truyền
Phép Tiên biến lá thành thuyền í i í i ì a
Phép Tiên biến lá thành thuyền, mười hai thổ mán đôi bên cầm chèo
Tiếng nhịp đẩy hò reo bắt lái, Chầu tới đâu cảnh lại thêm tươi í i a í à à a
Xe loan thánh giá hồi cung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét