Bài viết này nói về thân thế của Thánh Cô trong Tứ Phủ Thánh Cô. Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô ( Mười hai cô) gồm:
1. Cô Đệ Nhất Thượng Thiên
Cô Nhất Thượng Thiên. Cô cũng vốn là con Vua Cha dưới Thủy Tề
dưới Thoải Cung, được phong là Thiên Cung Công Chúa trên Thiên Đình. Có
người nói rằng cô cũng với Cô Chín hầu cận bên cạnh Mẫu Đệ Nhất Thiên
Tiên (tức Mẫu Liễu Hạnh) lại có nơi quan niệm cô là Tiên Cô kề cận, tay
biên tay chép kề bên Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (tuy nhiên do có quan
niệm là Mẫu Đệ Nhất cũng chính là chầu cho nên hai ý kiến này hầu như là
thống nhất với nhau). Cô giá ngự trong cung tòa, cận bên Mẫu cho nên
khi đến các đền phủ người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ
trước cửa Vua Mẫu Đình Thần Tứ Phủ. Khi thanh nhàn cô cưỡi gió cưỡi mây
rong chơi khắp chốn, từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa
cho đến tận Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Định...
Cô là tiên cô thần thông lục trí, cô chấm đồng người nết na thảo
hiền rồi đem về tiến Mẫu trong Đền Sòng Sơn. Cô Nhất khá ít khi ngự
đồng, chỉ những người sát căn cô mới hay hầu cô hoặc trong các dịp khai
đàn mở phủ Cô Nhất về chứng đồng tân lính mới. Khi ngự về Cô Nhất mặc áo
màu đỏ (áo gấm hoặc áo lụa thêu phượng), đầu đội khăn đóng (khăn vành
dây), thắt khăn và vỉ lét đỏ. Cô làm lễ khai cuông rồi múa quạt. Cô Nhất
thường được thờ vào ban Tứ Phủ Thánh Cô ở trong các bản đền.
Cũng có một số người nói rằng có đền cô là Đền Cô Nhất ở trong đất Nghệ An giáp Thanh Hóa với món đặc sản bánh ngào.
2.Cô Đôi Thượng Ngàn
Cô vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn
Tinh Công Chúa, ra vào hầu cận bơ tòa Vua Mẫu trong điện ngọc, nơi tiên
cảnh. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một chúa đất
ở chốn sơn lâm, khi hạ sinh, Cô Đôi rất xinh đẹp: da trắng, tóc xanh
mượt mà, mặt tròn, lưng ong thon thả.
Lễ hội Đền Đông Cuông
Sau này cô quyết chí đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê
Mại Đại Vương (chính là Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang) học đạo phép
để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được theo hầu cận ngay bên cạnh Mẫu
Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao
cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ (nên có khi còn gọi là
Cô Đôi Đông Cuông), cũng có người cho rằng cô về theo hầu cận Chầu Đệ
Nhị. Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê
nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng ca hát vui thú
tháng ngày trên sườn dốc Bò, có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh
đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất
giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục.
Đền Đông Cuông nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn và Cô Đôi Thượng Ngàn
Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người
trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có
nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn. Cô Đôi Thượng rất hay
ngự về đồng, vì danh tiếng cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô
đông vô số và cô cũng hay bắt đồng. Trong đại lễ khai đàn mở phủ người
ta thường dâng lễ vàng cây lên 5 tiên cô là Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Sáu, Cô
Chín và Cô Bé, trong đó Cô Đôi thường là giá cô ngự về đầu tiên (mở khăn
cho hàng cô) để chứng lễ. Khi cô về ngự thường mặc áo lá xanh hoặc quầy
đen và áo xanh (ngắn đến hông), trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc
khăn vấn) kết thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo xanh,
đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa
hoa. Cô về đồng thường khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái
lộc cho đồng tử.
Đền Đông Cuông
Vì Cô Đôi Thượng hầu cận bên Mẫu Đông Cuông nên đền cô cũng được
lập gần Đền Đông Cuông, trong đền thờ Cô Đôi và Cô Bé Đông Cuông, cách
đền chính khoảng 500m, trước cửa đền có giếng nước quanh năm trong mát.
Nhưng chính đền của cô lại là Đền Cô Đôi Thượng Ngàn tại xã Nho Quan,
Ninh Bình (qua rừng quốc gia Cúc Phương) thuộc làng Bồng Lai .
3. Cô Ba Thoải Cung (Cô Bơ)
Cô vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, được phong là Thoải
Cung Công Chúa, giá ngự vào ra trong Cung Quảng Hàn. Có người còn nói
rằng, Cô Bơ là con gái vua Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Đức
Vương Mẫu (có người cho rằng đó là Mẫu Cửu Trùng Thiên) cho theo hầu
cận, chầu chực trong cung cấm. Sau này Cô Bơ Thoải giáng sinh vào thời
Lê Trung Hưng, tương truyền sự tích như sau: Đức Thái Bà nằm mộng thấy
có người con gái xinh đẹp, dáng ngọc thướt tha, tóc mượt mắt sáng, má
hồng, môi đỏ, cổ cao ba ngấn, mặc áo trắng đến trước sập nằm dâng lên
người một viên minh châu rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ, nay
vâng lệnh cao minh lên phàm trần đầu thai vào nhà đó, sau này để giúp
vua giúp nước, thì Thái Bà thụ thai.
Đến ngày 2/8 thì bỗng trên trời mây xanh uốn lượn, nơi Thủy Cung
nhã nhạc vang lên, đúng lúc đó, Thái Bà hạ sinh ra được một người con
gái, xem ra thì nhan sắc mười phần đúng như trước kia đã thấy chiêm bao.
Thấy sự lạ kì vậy nên bà chắc hẳn con mình là bậc thần nữ giáng hạ, sau
này sẽ ra tay phù đời nên hết lòng nuôi nấng dạy dỗ bảo ban. Cô lớn lên
trở thành người thiếu nữ xinh đẹp, tưởng như ví với các bậc tài nữ từ
ngàn xưa, lại giỏi văn thơ đàn hát. Đến khi cô vừa độ trăng tròn thì
cũng là lúc nước nhà phải chịu ách đô hộ của giặc Minh, cô cùng thân mẫu
lánh vào phía sâu vùng Hà Trung Thanh Hóa, nơi ngã ba bến Đò Lèn, Phong
Mục. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cô đã có công giúp vua Lê
trong những năm đầu kháng chiến (và có nơi còn nói rằng cô cũng hiển ứng
giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc” sau này).
Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những
năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn
còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi
(có sách nói là Lê Lai) bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung
thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần
áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi
cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô. Vừa lúc đó thì quân giặc kéo
đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đo không thì cô bảo rằng chỉ có cô
và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ
đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô
về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Sau đó cô cũng không
quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua
sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương. Có thể nói trong kháng chiến
chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. Đến ngày khúc hát khải
hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà
Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ,
còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ,
không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên
trinh.
Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp
vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau
đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua
lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông
(do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi
quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô
vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân
đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù
già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ
thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn
vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm
đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn
khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên
hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi
đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị
bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc
chữa bệnh. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải,
lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba
Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là
Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung,
tỉnh Thanh Hóa, trước đây đường đi vào rất khó khăn, nhưng hiện giờ đã
được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn
Đền cô là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của
Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng
anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân
duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều
phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón
trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng
4. Cô Tư Ỷ La, Cô Tư Địa Phủ
Cô Tư Ỷ La cũng vốn là con vua Đế Thích chính cung. Theo lệnh
vua cha, cô theo hầu Mẫu Thượng Ngàn tại đất Tuyên Quang. Về sau, nơi
Mẫu giá ngự đó, người ta lập đền Mẫu Ỷ La nên cô cũng được gọi là Cô Tư Ỷ
La. Tương truyền rằng, Mẫu bà rất yêu quý, thường cho Cô Tư kề cận bên
mình. Vậy nên đúng như các tư liệu ghi lại thì chính xác là Cô Tư hầu
cận Mẫu Thượng Ngàn chứ không phải cô hầu cận Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai như
chúng ta vẫn thường nghĩ. Ngoài ra Cô Tư còn có một danh hiệu khác là
Cô Tư Tứ Tổng Tây Hồ. Qua ước đoán, có thể suy ra rằng danh hiệu này là
do Cô Tư đã từng giáng hiện tại đất Tây Hồ, Hà Nội rong chơi, và điển
hình nhất là hiện nay vẫn có ban thờ Cô Tư tại đình Tứ Liên; một ngôi
đình cổ nằm ở gần Phủ Tây Hồ, Hà Nội.
Trong hàng Tứ Phủ Tiên Cô, Cô Tư Ỷ La thường hiếm khi thấy ngự
về đồng nên nếu nói về y phục cũng như cung cách khi hầu giá Cô Tư hiện
giờ là rất khó. Tuy nhiên theo phỏng đoán của người viết thì có thể khi
hầu giá Cô Tư Ỷ La thường mặc xiêm áo màu vàng nhạt, cô có thể khai
cuông và múa mồi hầu Mẫu (đây chỉ là ý kiến cá nhân đưa ra để mọi người
tham khảo). Hiện nay
Cô Tư vẫn được coi là thờ chính cung hầu Mẫu Thượng Ngàn trong đền Mẫu Ỷ La thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, Cô Tư còn được thờ vọng trong Đình Tứ Liên
( xưa gọi là Đình làng Ngoại Châu), phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà
Nội. Khi các thanh đồng hầu tráng mạn đến giá Cô Tư,
5. Cô Năm Suối Lân
Cô Năm Suối Lân vốn là tiên nữ trên trời, theo lệnh cô giáng
trần là người thiếu nữ dân tộc Nùng ở xứ Lạng. Có tích lại kể rằng Cô
Năm là người thị nữ thân cận bên Chầu Năm Suối Lân ( lúc sinh thời khi
chầu còn là công chúa) nên cô cũng được tôn hiệu là Cô Năm Suối Lân hay
Cô Năm Sông Hoá. Sau này được sắc phong hiển thánh, Cô Năm vẫn được coi
là tiên cô kề cận bên cửa Chầu Năm, cô được coi là tiên cô trông giữ bản
đền Suối Lân. Ngoài ra cô còn được coi là vị thánh trấn tại cửa rừng
Suối Lân (cung rừng này một cửa vào là cửa Suối Lân do Cô Năm Suối Lân
trấn giữ, cửa ra là cửa Thất Khê do Cô Bé Đèo Kẻng trấn giữ), vậy nên,
ai đi chiêm bái trên đất Lạng đều phải qua bái yết cửa Chầu Năm và Cô
Năm Suối Lân. Dòng Suối Lân do Cô Năm cai quản bốn mùa trong xanh, nước
thông về sông Hoá, tương truyền rằng đây là dòng suối thiêng của cô,
nước suối xanh mát bốn mùa không bao giờ cạn, nếu ai có bệnh tật đến xin
nước suối cửa cô, uống vào sẽ thuyên giảm, nhược bằng, người nào không
biết mà xuống suối tắm hay rửa chân tay, làm ô uế dòng suối của cô sẽ bị
cô hành cho sốt nóng mê sảng. Phép anh linh của Cô Năm Suối Lân còn
được biết qua việc nếu có kẻ nào báng nhạo cô sẽ “xát lá han” làm cho kẻ
đó luôn ngứa ngáy không yên, rồi cô cho đi lạc đường rừng.
Trong hàng thánh cô, thường thấy Cô Năm Suối Lân ít khi ngự đồng
hơn Cô Sáu Lục Cung, thường chỉ người nào có sát căn quả về cửa Cô Năm
hoặc khi về đền Suối Lân thì có thấy thỉnh bóng Cô Năm ngự đồng. Khi hầu
về giá Cô Năm Suối Lân, thường người ta mặc xiêm y như màu áo của Chầu
Năm (nhưng là áo ngắn vạt), đó có thể là màu xanh thiên thanh hoặc xanh
lá cây, cô chít khăn củ ấu, bên mình có túi vóc, dao quai. Ngự đồng cô
khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay Cô Năm Suối Lân được phụng thờ là thánh
cô trấn giữ cửa Suối Lân Sông Hoá, cung thờ cô được đặt cạnh ngay đền
chính của cửa Chầu Năm Suối Lân (huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn).
6. Cô Sáu Lục Cung, Cô Sáu Sơn Trang
Cô cũng vốn là thánh cô nguyên tích là người Nùng ở đất Hữu
Lũng, Lạng Sơn. Có thuyết thì nói rằng Cô Sáu là tiên cô kề cận bên cửa
Chúa Thượng Ngàn ở đất Trang Châu (chưa xác định rõ), còn lại đa phần
đều thống nhất rằng Cô Sáu là người kề cận Chầu Lục Cung Nương nên cô
mới được gọi là Cô Sáu Lục Cung hay còn có danh khác là Cô Sáu Sơn
Trang. Khi nhân dân lập đền thờ phụng Chầu Bà, vẫn thỉnh Cô Sáu là cô
trấn bản đền Lục Cung. Ngoài ra, theo một số tích cũ kể lại, Cô Sáu Lục
Cung sinh thời là người con gái xinh đẹp nết na, lại có tài chữa bệnh,
cô thường đi khắp rừng sâu núi thẳm để hái thuốc cứu người vậy nên khi
hiển thánh, Cô Sáu vẫn thường được muôn dân tôn là tiên cô có tài chữa
bệnh cứu người, dân chúng khắp nơi về cửa cô để xin thuốc tiên trị bệnh.
Cô Sáu Sơn Trang cũng nổi tiếng đành hanh trên đời, nghiêm khắc trừng
trị kẻ nào nhạo báng cửa cô.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Sáu Lục Cung rất hay về ngự đồng.
Các thanh đồng đạo quan thường thỉnh bóng Cô Sáu Sơn Trang ngự đồng
không chỉ có khi về đền Lục Cung, về đất Lạng Sơn mà cả khi khai đàn mở
phủ hay trong cả những dịp hầu vui, đón tiệc tiên thánh. Cô Sáu ngự đồng
thường mặc áo lam hoặc áo tím chàm (ngắn vạt rộng tay). Cô ngự đồng
khai cuông rồi múa mồi như các tiên cô trên Thượng Ngàn khác. Hiện nay
Cô Sáu Lục Cung chính là thánh cô trấn giữ bản đền Lục Cung Chín Tư,
cung thờ cô được xây ngay cạnh chính cung đền Chầu Lục Cung Nương (Chín
Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn).
7. Cô Bảy Tân La, Cô Bảy Kim Giao, Cô Bảy Mỏ Bạch
Cô Bảy Kim Giao. Cô vốn cũng là một tiên cô người dân tộc Mọi ở
đấy Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên. Theo một số tích nói rằng cô cũng là
người kề cận bên Chầu Bảy nên cũng được gọi là Cô Bảy Kim Giao hay còn
có hiệu khác là Cô Bảy Tân La ( khi cô được theo hầu cận Chầu Bảy tại
đền Tân La). Tương truyền rằng cô cũng là vị thánh cô có công giúp người
dân Mọi biết trồng trọt chăn nuôi rồi cô cũng có công trong cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Vậy theo một số tài liệu thì chính
xác Cô Bảy là Cô Bảy Kim Giao hay Cô Bảy Tân La (theo hầu Chầu Bảy Kim
Giao) chứ không phải là Cô Bảy Tân An (theo hầu Ông Bảy Bảo Hà ) như một
số người vẫn nói. Còn có sự tích nói rằng, đêm đêm cô thường hội họp
cùng các bạn tiên nàng, mắc võng đào giữa hai cây kim giao rồi cùng đàn
hát.
Trong hội đồng Thánh Cô, Cô Bảy Kim Giao là một trong số các cô
ít khi ngự đồng nếu không nói là hầu như không thấy. Vậy nên nếu để nói
đến y phục và cung cách hầu giá Cô Bảy là rất khó, theo phỏng đoán của
người viết thì có thể giá Cô Bảy Kim Giao mặc áo tím hoặc chàm xanh, cô
ngự đồng khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay, Cô Bảy vẫn được thờ làm cô
bản đền tại chính cung Đền Kim Giao (Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên)
và còn cả tại đền Tân La ( Dốc Lã, Bảo Khê, Hưng Yên). Khi hầu tráng mạn
đến giá Cô Bảy Kim Giao
8. Cô Tám Đồi Chè
Có
một số ý kiến thống nhất rằng: Cô giáng sinh dưới thời Lê Thái Tổ dấy
binh khởi nghĩa, cô là người thiếu nữ trồng hái búp chè tại vùng Phong
Mục, Hà Trung, Thanh Hoá. Cô cũng có công giúp vua trong công cuộc đánh
đuổi giặc ngoại xâm nên khi thác hoá về trời, cô được phong công lập đền
thờ, trấn giữ một bên bến song Đò Lèn, Phong Mục. Cô sinh thời là người
con gái đảm đang nết na tần tảo, hái búp chè xanh trên đồi thường dung
làm thuốc chữa bệnh nên mọi người thường tôn hiệu là Cô Tám Đồi Chè. Khi
thanh nhàn, cô thường đủng đỉnh dạo chơi khắp vùng Hà Trung, Thanh Hoá,
cũng có khi cô hiện hình bẻ lái con thuyền độc mộc trên dòng sông Mã.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Tám Đồi Chè hiếm khi về ngự đồng,
chỉ có người nào sát về Cô Tám hoặc khi hầu đón tiệc tháng 6 tại các đền
ở vùng Thanh Hoá. Cô Tám Đồi Chè ngự đồng thường mặc áo xanh quầy đen (
có nơi là áo tím hoa cà ) . Cô Tám cũng khai quang sau đó múa mồi, sau
đó thường là múa tay tiên các điệu như người đi hái chè trên non. Hiện
nay đền thờ Cô Tám Đồi Chè được thờ riêng tại đền cô thuộc đất Phong
Mục, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nếu đi từ đền Cô Bơ sang thì qua đò
Lèn, đền cô rất khang trang nhưng ít người biết tới.
9. Cô Chín Sòng Sơn, Cô Chín Thượng Ngàn
Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài
phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko
sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về
tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở
dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín
chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .
Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu Mẫu trong đền
Sòng , quản cai chín giếng , cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam ,
sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên , cô hài lòng liền hội họp thần
nữ năm ba bạn cát , lấy gỗ cây sung làm nhà ,còn cây si thì cô mắc võng
, nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa
, cách đền Sòng Sơn khoảng 30km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt
màu đào phai , có khi cô máu quạt tiến Mẫu , múa cờ tiến Vua , cũng có
khi cô thêu hoa dệt lụa , rồi lại múa cánh tiên .Ai cầu đảo cô đều sắm
sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa vòng hồng để dâng cô đều được cô chứng minh
.Ở một số địa phương đều thờ cô và tôn với các danh khác như Cô Chín
Rồng , Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín Sòng được thờ phụng
10. Cô Mười Mỏ Ba
Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba , giúp vua đánh giặc Ngô ,khi ngự
về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông
pha trận mạc , sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười
11. Cô Bé Thượng Ngàn
Cô Bé Thượng Ngàn là Tiên Cô mà tên gọi thường được đặt theo tên
các địa danh, các đền thờ. Các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa
Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn, có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa
rừng lớn nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng
bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm:
- Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
- Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
- Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê).
- Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
- Cô Bé Tân An (Lào Cai)
Từ rất xa xưa, bên bờ sông Hồng tại thôn Tân An 2 thuộc xã Tân
An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, đã có một ngôi Đền gọi là Đền Cô Tân An
(còn gọi là Đền Cô Bé Thượng Ngàn), là nơi thờ tự một nữ chúa có tên
húy là Hoàng Bà Xa, tương truyền đã cùng cha là đức quan ngài Hoàng Bảy,
có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và
Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) suy tôn là vị Thánh Mẫu. Đối diện bên
kia sông là đền Bảo Hà (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai)- thờ Đức quan ngài
Hoàng Bảy.
- Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
- Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
- Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
Truyền thuyết kể rằng, vào thời nhà Trần (thế kỷ XV), ở tổng
Minh Lương, thuộc xã Lang Quán ngày nay có hai vợ chồng, ông chồng là
người Dao, bà vợ là người Mường tuổi đã cao mà chưa có con. Ngày ngày
ông bà ra ngòi Lịch xúc tôm tép sống lần hồi. Một hôm, ông ở nhà, bà đi
xúc tép như mọi ngày, nhưng xúc mãi không được con gì mà chỉ được hai
quả trứng lạ. Bực mình, bà xuống hạ nguồn rồi lên tận thượng nguồn ngòi
Lịch xúc vẫn chỉ được hai quả trứng ấy. Bà đành mang về thả vào chum
nước dưới cầu thang. Ít lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cô bé bụ
bẫm, đặt tên là Minh Lương. Cùng lúc đó, hai quả trứng thả trong chum
nước dưới cầu thang nở ra hai con rắn. Hai con rắn và cô bé Minh Lương
cùng lớn lên, quấn quýt làm bạn với nhau.
Một buổi chiều, ông bà đi làm về và nhìn thấy hai con rắn quấn
chết cô bé. Sẵn con dao rựa đeo bên người, ông tức giận rút dao vừa
chém, vừa nói “Mày hại tao à”. Hai con rắn sợ quá chạy trốn, nhưng một
con chậm hơn đã bị chém đứt đuôi. Ông đuổi hai con rắn và nói: “Cụt đi
hang Mang, Khoang đi hang Đồng”.
Ông bà xót thương cô bé, không nỡ chôn, nên đặt cô nằm ở trên
sàn. Đến sáng đã thấy mối đùn lên đắp mộ cho cô bé. Dân làng thấy vậy
đều cho là cô đã linh hoá nên lập miếu thờ. Thời kỳ giặc Cờ đen, cô bé
Minh Lương đã hiển linh giúp quan quân triều đình thoát khỏi rừng rậm,
sau đó dũng mãnh dẹp sạch giặc Cờ đen. Sau đó Cô còn hiển linh bốc
thuốc, giúp dân chữa bệnh thoát cơn hiểm nghèo.
- Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
- Cô Bé Sóc (Miền Nam)
Còn gọi là Cô Bé Đen, mặc khăn áo đen và hồng. Về đồng múa mồi,
dùng nhang chữa bệnh. Cô đánh phấn màu đen, phấn đỏ cô để ban khen cho
thanh đông cô. Hay về đồng tại Miền Nam.
- Cô Bé Mỏ Than( Tuyên Quang)
Truyện chuyền miệng kể rằng : thần Kim Quy thấy mỏ quý của vua
cha mẫu mẹ tại đền Mỏ Than. Đã rủ cá Kình ở biển Đông về cùng nhau mang
hết mỏ quý ra vùng Nam Hải khi đất ở đây chỉ còn là giữa núi và biển, cá
Kình đứng gác bên ngoài, thần Kim Quy xuống hang và khi lên tới gần
miệng hang thì ông Cóc (ở gần miếu Sơn Thần) đã nghiến răng báo lên
thiên đình cho Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Hoàng củ cô Mười xuống. Cô bé
cưỡi trên lưng hai con rồng bay xuống thấy khoảng trời u ám có khí lạnh
bay lên. Cô nhảy vội xuống với hai vết chân chẹn lên thần Kim Quy, vết
chân phải trượt gót mờ, bàn chân trái đè oằn cổ rùa. Bắt rùa hoá đá
(Bách gia trăm họ gọi là quy trị bản đền) thần Kim Quy hoá đá thì cà
Kình ở biển Đông cũng hoá đá. (Tất cả các cảnh quan của đền quay về nơi
phật ngự phương tây riêng có cá Kình quay về phía Đông Bắc). Nhờ Cô Bé
Mỏ mà bách gia trăm họ vẫn còn “mỏ tụ đồng” xưa. Đến Pháp tìm ra mỏ than
hay còn gọi là vàng đen của đất nước. Hiện nay còn nuôi dưỡng mỏ kim
cương non. Cho nên ở chính nơi đây còn tồn tại truyền thuyết Cô Bé Mỏ
Than (hay Cô Bé Mỏ Cây Xanh). Cô bắt ông Ba Mươi phủ phục bên mình, cô
xin vua cha mẫu mẹ cho cây xanh bao bọc lấy mỏ và bốn mùa toả bóng mát
cho cô hoàn thành việc cha việc mẹ. Ngoài ra cô còn chữa bệnh cho bách
gia trăm họ. Nhất là những người dở dại dở điên. Những lúc thư nhàn cô
gọi đàn chim ngũ sắc về vây quanh ca hát, lúc đi lúc về cổ thường mang
sắc thái màu vàng với âm thanh của tiếng chim vàng anh báo biến, báo
hiện. Khi cô đi xa cô thường để lại đôi dải thắt lưng màu đen ở lại (đôi
long xà có mào) để giữ đền giữ phủ. Người ta truyền rằng ai nhìn thấy
ông rắn có mào là người đó được lên danh lên giá. Nhưng người đó phải là
người thực tâm không có tâm tà. Xưa những người đàn bà bụng mang dạ
chửa phải đi vòng qua cửa cô cách nữa dặm. bất kể ai qua nơi cô ngự đều
phải bỏ nón mũ xin cô thực tâm cô phù hộ. Tà tâm cô cho náo loạn gia
trung.
12. Cô Bé Thoải Cung
Cô ngự ở dưới tòa Thoải Cung, Cô rất xinh đẹp, tài giỏi, có thể hô mưa gọi gió...