1. Thánh ông Hoàng Cả
- Tên húy của Ngài: Đoàn Thượng
- Sắc phong tước hiệu: Đông hải Đại vương.
- Đền thờ chính: Ở Lý Nhân, Nam Hà nhưng đã bị phá, nay được thờ phối hương với đền thờ bà Vũ Nương và ở đền Trung suối Mỡ (Bắc Giang)
- Thân thế: Là con của vua cha Bát Hải Động Đình, là cả trong Tứ phủ Ông Hoàng, giáng sinh đầu tiên. Sau đó, lên cõi thượng thiên coi giữ sổ sách.
Ông Cả rất ít khi ngự đồng, khi ngự về ông thường mặc áo đỏ (có thêu
rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét đỏ. Ông
Hoàng Cả ngự về thường chỉ tấu hương, khai quang (cũng có người hầu ông
về múa hèo, nhưng khá hiếm vì không mấy người hầu về Ông Cả.
2. Thánh ông Hoàng Đôi
- Tên húy của Ngài: Nguyễn Hoàng Triệu.
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng thần.
- Đền thờ chính: Thanh Hóa (đền ông Hoàng Triệu), ở Hà Nội (đền Hoàng ở Chèm).
- Thân thế: (Thường gọi tắt là Ông Đôi) hay còn gọi là Ông Triệu Tường: là con trai Đức Vua Cha. Ông theo lệnh, giáng sinh lên cõi trần gian, làm con trai thứ hai nhà họ Nguyễn, sau đó ông trở thành danh tướng, có công giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc”, ông là người đã đem quân truy đuổi họ Mạc đến tận đất Cao Bằng, rồi ông được vua Lê phong công, giao cho kéo binh đóng ở đất Tống Sơn, Triệu Tường, Thanh Hóa.
Đền thờ Ông Hoàng Đôi được lập ở nơi mà xưa kia ông đã kéo binh
vê đóng ở đó gọi là Đền Triệu Tường (hay còn gọi là Đền Quan Triệu) ở
đất Tống Sơn, núi Triệu Tường, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngoài ra ở Hà
Nội cũng có một ngôi đền gọi là Đền Quan Triệu (hay tên thường gọi là
Đền Hoàng).
3. Thánh ông Hoàng Bơ
- Tên húy của Ngài: Tống Khắc Bính, là thái tử con vua Nam Tống
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
- Đền thờ chính: Đền thờ Ngài ở Thanh Hóa gần đền cô Tám. Đền thờ chính của Ngài là ở trên núi nhìn ra biển ở cửa Cờn, ngày nay người ta chuyển thành thờ ông Hoàng Chín, Đền Hưng long và đang được hưng công tại Thái Bình.
- Thân thế: Ngài hầu Mẫu ở đền Cờn, mẫu Hàn Sơn Thanh Hóa, làm việc thoải cung, là 1 trong 4 vị Khâm sai thay quyền vua Mẫu bốn phủ đi bắt lính nhận đồng. Ngài ngự áo xanh theo sắc phong bốn phủ, chít khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi ghệt tay ghệt chân, thắt đai vàng thành hoa trước ngực, múa hèo. Sau khi làm lễ khai quang, Ngài đi hèo ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ, ban phát lộc tài. Đầu năm tháng Giêng, người ta hầu Ngài ngự áo đỏ khăn đỏ chứ không như bây giờ, mặc áo trắng. Có người lý luận rằng áo Ngài thì Ngài mặc nhưng trong tâm linh Việt Nam cho màu trằng là màu buồn nên đầu xuân kiêng mặc áo trắng.Như vậy mới là hóa thân bất tử giữa trần và âm. Đó là phong cách chứ không phải là sự đơn thuần. Ngài hạ sinh vào thời Nam Bắc Tống phân tranh. Sau khi nhà Nam Tống bị nhà Bắc Tống đánh bại, Ngài dong thuyền ra biển Đông và thác hóa. Thân y trôi vào cửa Cờn được ông Hoàng Chin lúc bấy giờ đang tu ở đó vớt lên chôn cất. Sau này Ngài phù Lý, Trần anh kinh hiển hách được nhân dân gọi là ông Hoàng Bơ Thoải. Đền thờ Ngài hiện nay đã bị những kẻ vô học chuyển thành đền ông Hoàng Chín. Ngưỡng mong những nhà nghiên cứu cũng như những người có chức có quyền và chức đồng đạo sớm trả lại đền thờ của Ngài theo đúng nghĩa.
Theo tài liệu khác về thân thế Quan Hoàng Bơ:
Cổ nhân có câu : "Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân", nghĩa là
người sống nhân đức thì trời đất sẽ ủng hộ giúp đỡ. Từ thủa xưa, mỗi khi
đất nước nguy biến, nhân dân cực cực đều xuất hiện những vị anh hùng
cứu dân hộ quốc. Theo tâm linh người Việt, đó là sự diệu kỳ do thiên địa
hóa hình, thần tiên giáng thế. Ông Hoàng Bơ Thủy Cung - một vị Thần
quản cai cõi miền sông nước đã hóa thân thành Minh Đức Đại Vương hiển
tích tại đền Hưng Long, làng Kênh Xuyên, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Thần tích kể rằng: Làng Kênh Xuyên thủa xưa có hai vợ chồng lão
ông Trần Thái Công và lão bà Đặng Thị hiền lành nhân đức đã luống tuổi
mà chưa có con nối dõi bèn phát nguyện ra trông coi đèn hương đền thờ
Thánh Mẫu Đệ Tam Thủy Tinh. Dầu dãi trải mấy thu không tiếc công lao,
lại làm phúc đắp đường, sửa đê, bố thí người nghèo khổ. Công đức cảm
động đến Thánh Mẫu, một đêm thái bà nằm mơ thấy một người con gái mình
mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly tay ôm một đứa bé trai kháu khỉnh, ngự
trên rồng vàng bay lên từ mặt nước nói rằng :
- Ta là con gái động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Xích
Lân Long Nữ Công Chúa thấy vợ chồng ngươi siêng năng làm phúc, chăm sóc
đèn hương, nên cho Hoàng tử Long cung đầu thai làm con để lo báo hiếu,
sau này sẽ cứu giúp dân lành nhiều phen.
Giấc mộng tỉnh, thái bà thấy trong lòng khác lạ mà mang thai,
đến kỳ khai hoa mãn nguyệt bỗng thấy mây ngũ sắc vây quanh, hương thơm
sực nức, từ trên trời hào quang sáng chói như trăm hồng ngàn tía. Đúng
ngọ ngày hạ chí mười ba tháng sáu (ngày hội đền Đức Thánh Mẫu) thái bà
sinh hạ một cậu bé trai khôi ngô tuấn tú, dung mạo khác thường bèn đặt
tên là Trần Minh Đức, tám tháng biết nói, chín tháng biết đi, năm tuổi
đã đọc thông sách vở. Lớn lên chỉ mộ về đạo Phật thiền gia dù cho Thái
ông, Thái bà có giục giã cũng không màng chuyện hôn nhân phu phụ. Năm
hăm hai tuổi Minh Đức lập một thảo am để hàng ngày nghiên cứu Phật Pháp
thuyền gia. Sau khi Thái ông, Thái bà về tiên, thì Minh Đức cũng đi đâu
không rõ. Ngôi đền và thảo am để nhang lạnh khói tàn, bỗng một đêm dân
làng ai ai cũng đều mơ thấy có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú đầu đội
kim khôi, mình mặc áo trắng lưng giắt kiếm bạc, cưỡi trên đôi bạch xà
hiện lên trên mặt biển nói rằng:
-Ta là hoàng tử long cung, giáng sinh vào để tác phúc cho Thái
ông, Thái bà nay hết hạn ta về thủy cung. Dân làng thời phải nên thờ
phụng Thánh Mẫu Thủy Tinh cho nghiêm cẩn như xưa khi có nạn ắt ta đến
cứu. Về sau sẽ âm phù cho đất đai rộng mãi.
Sáng dậy ai cũng thuật lại cho nhau giấc mơ y hệt, bèn cung kính
sợ hãi mà cho rằng ngôi đền rất linh thiêng nên lập thêm long ngai bài
vị Minh Đức Hoàng Bơ Thoải đại vương phụng thờ, hương hỏa ngày đêm không
dứt.
Đến năm Giáp Ngọ ngày mười ba tháng tám có bão lớn con đê Ngự Hàm
bỗng dưng vỡ toác, nước ngập mênh mông, người chết vật trôi nhiều vô số
kể. Việc đắp đê hàn long không thể tiến hành, dân làng bèn nhớ giấc mơ
xưa lập đàn cầu đảo, bỗng đâu từ ngoài biển có một ông Bạch mãng xà bơi
vào, rắn bơi đến đâu hàn long đến đó, khi hàn long xong thì cũng không
thấy rắn trắng đâu nữa. Dân làng đều biết là Minh Đức hoàng tử cứu giúp
bèn về đền lễ tạ.Và Chánh tổng Tân Hưng lúc đó là cụ Bá Thuần cho xây
một ngôi đền ngay chỗ vỡ đê thờ Minh Đức hoàng tử. Chỗ ấy ngày nay là
thôn Hưng Long Bắc, xã Đông Long, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Vì
làng Kênh Xuyên được âm phù lên mở rộng mãi ra biển đến nay đã tách
thành 4 làng. Kênh Xuyên, Hưng Thịnh, Hải Long và Hưng Long. Đồng thời
tâu lên triều đình về sự linh ứng của ngài. Và được triều đình ban phong
mỹ hiệu cấp ruộng tế điền để phụng thờ.
Đức thánh hoàng còn được triều Nguyễn sắc phong mỹ tự " Đông
Hải, Thủy Tinh, Bạch Long, Linh Phù, Hiển Ứng, Tịnh Tuệ, Bác Huệ, Minh
Đức Đại Vương thượng đẳng thần " Từ đó đến nay dân thôn phụng thờ và lễ
bái đều linh nghiệm, là nơi ngư dân cầu đảo trước mỗi mùa cá và mỗi lần
ra khơi. Hàng năm vào mười ba tháng sáu là ngày tiệc đản sinh của Thánh
Hoàng dân làng đều tổ chức tế lễ rước kiệu từ đền về chùa lễ Phật và bái
yết thánh Mẫu Đệ Tam và hầu bóng, nhiều lần có cá Heo về chầu.
4. Thánh ông Hoàng Tư- Tên húy của Ngài: Nguyễn Hữu Cầu.
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần, Thủy Cung hoàng tử.
- Đền thờ chính: Đồ Sơn. Nhân dân thường gọi là miếu Thủy thần.
- Tên húy của ngài: Hoàng Công Chất.
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
- Đền thờ chính: Điện Biên
- Tên húy Ngài là: Chưa rõ
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
- Đền thờ Ngài: Phố Lu
- Tên húy của Ngài: Nguyễn Hoàng Bảy.
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
- Đền thờ Ngài: Bảo Hà, Lào Cai.
- Thân thế: Đền Bảo Hà nằm ở xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai giáp ranh tỉnh Yên Bái, còn được gọi là đền ông Hoàng Bảy. Đền xây dựng dưới chân đồi Cấm, có quang cảnh thiên nhiên “trên bến dưới thuyền” đẹp đẽ. Phía tả ngạn là dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy. Còn bên hữu ngạn là một hồ rộng, tạo cho nhà đền cảnh đẹp trữ tình. Ngôi đền Bảo Hà được xây dựng vào cuối đời Lê (niên hiệu Cảnh Hưng), thờ danh tướng Hoàng Bảy họ Nguyễn, có công bảo vệ và xây dựng tổ quốc ở cửa ải Lào Cai. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Bảo Hà có một vị trí quan trọng phòng thủ biên giới, là cửa trạm của phòng tuyến sông Hồng phía Tây Bắc.
Đến cuối đời nhà Lê (1740-1786), các châu Thuỷ Vĩ, Văn Bàn và
nhiều nơi khác thuộc phủ Quy Hoá luôn bị giặc cướp phương Bắc tràn sang
quấy nhiễu. Trước tình hình giặc giã biên cương quấy đảo, triều đình cử
viên tướng thứ bảy họ Nguyễn lên trấn thủ Quy Hoá. Danh tướng họ Nguyễn
đưa đội quân tiến dọc sông Thao đánh đuổi bọn giặc cỏ, giải phóng Khảu
Bàn và xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Tại đây danh tướng đã tổ chức
các thổ ty, tù trưởng luyện tập binh sỹ… Sau đó thống lĩnh quân thủy và
quân bộ tiến đánh giặc ở Lào Cai, giải phóng các châu thuộc phủ Quy Hoá
(Yên Bái, Lào Cai ngày nay).
Sau đó, quân giặc phương Bắc do tên tướng Tả Tủ Vàng Pẹt đưa quân
sang xâm lược bờ cõi, danh tướng Hoàng Bảy lại dẫn quân lên tham chiến.
Song, do trận chiến không cân sức, ông đã anh dũng hy sinh. Giặc vứt
xác ông xuống sông Hồng, và trôi đến Bảo Hà. Nhân dân trong vùng do ông
Lư Văn Cù đứng ra tổ chức vớt xác ông lên chôn cất và lập miếu thờ. Để
ghi nhớ công lao của ông, các vua triều Nguyễn như Minh Mệnh, Thiệu Trị
đã tặng ông danh hiệu “Trấn an hiển liệt” và đền thờ ông cũng được các
vua triều Nguyễn cấp sắc phong là “Thần Vệ Quốc”. Còn đồng bào các dân
tộc Kinh, Tày, Dao… thì tôn thờ ông là vị nhân thần. Ông đi vào cõi tâm
linh các dân tộc và hiện thân trong các lễ hội xuống đồng vào ngày Thìn
tháng giêng.
Sự tích: Ông Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, cuối thời Lê. Vào triều Lê Cảnh Hưng, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử ông, dọc theo sông Hồng, lên đánh đuổi quân giặc và trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp. Sau này trong một trận chiến đấu không cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội. Sau này khi hiển linh ông được giao quyền cho trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn rất ăn chơi, phong lưu: khi thanh nhàn ông ngả bàn đèn, uống trà mạn Long Tỉnh, ngồi chơi tổ tôm, tam cúc, xóc đĩa… lúc nào cũng có thập nhị tiên nàng hầu cận, ông cũng luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc_ Ông Hoàng Bảy Bảo Hà”.
Sự tích: Ông Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, cuối thời Lê. Vào triều Lê Cảnh Hưng, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử ông, dọc theo sông Hồng, lên đánh đuổi quân giặc và trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp. Sau này trong một trận chiến đấu không cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội. Sau này khi hiển linh ông được giao quyền cho trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn rất ăn chơi, phong lưu: khi thanh nhàn ông ngả bàn đèn, uống trà mạn Long Tỉnh, ngồi chơi tổ tôm, tam cúc, xóc đĩa… lúc nào cũng có thập nhị tiên nàng hầu cận, ông cũng luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc_ Ông Hoàng Bảy Bảo Hà”.
Ông Bảy là Ông Hoàng hay ngự về đồng nhất, cũng bởi vì trong
hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, ông rất hay chấm lính bắt đồng (có quan niệm cho
rằng, những người nào mà sát căn Ông Bảy thì thường thích uống trà tàu,
hay đánh tổ tôm, xóc đĩa…). Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo lam hoặc
tím chàm (thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có
thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương,
khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng. Đến giá Ông Bảy về
ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng
người đó. Lúc ông giá ngự, thường dâng ông ba tuần trà tàu rồi thuốc lá
có tẩm thuốc phiện.
8. Thánh ông Hoàng Tám
- Tên húy Ngài: Nùng Chí Cao
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Đại Vương.
- Đền thờ Ngài: Cao Bằng (đền Kỳ Sầm).
9. Thánh ông Hoàng Chín
Tên húy của Ngài: Chưa rõ
Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
Đền thờ của Ngài: Ở phía đảo ngoài biển Cờn.
Ngài là con đức Vua Cha, là Quan Hoàng có tính yểu điệu nhất. Về đồng mặc áo dài đen, chân đi guốc, tay cầm ô, mặc kiểu địa chủ thời cổ Việt Nam. Ông về đồng giáng bút, ngâm thơ, uống rượu bằng bát. Gốc tích của ông ít được lưu truyền, tuy nhiên ông có giáng trần, với tài văn chương, thơ phú kinh luân biệt tài. Ồng đăng khoa triều đình lúc tuổi vừa đôi tám. Và Ông cũng là một tướng tài được giao trọng trách thống lĩnh cửa Cờn Môn. Chính vì thế nhân dân còn gọi là Ông Hoàng Chín là Ông Cờn Môn. Sau ông còn là vị quan thanh liêm, cứu dân, giúp nước và luôn trợ người hữu duyên. Ông Chín Cờn cũng ít khi ngự về đồng. Cũng như ông Hoàng Tám Bát Quốc, thường những đồng cựu và sát căn duyên mới bắc ghế hầu ông
10. Thánh ông Hoàng Mười
Tên húy Ngài: Nguyễn Xí,
Sắc phong:
Đền thờ chính: Hà Tĩnh, Nghệ an
Thân thế: Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh
Ông Hoàng Mười:Theo truyền thuyết, ông Hoàng Mười là con thứ mười của Đức Vua cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh. Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là "Đức thánh minh", là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt Nam.
Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.
Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).
Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.
Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách ... để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét