1. Chầu bà đệ nhất
- Tên đầy đủ: Đệ nhất thượng thiên công chúa
- Tước phong: Đệ nhất hoa nương công chúa làm việc thượng thiên – Đệ nhất thượng thiên công chúa
- Thân thế: Chầu bà đệ nhất được dân ta huyền hóa qua đời thứ nhất mẫu Liễu giáng ở Vị Nhuế, Nam Định.Ngài là hiện thân của Thánh Mẫu đệ nhất, thuộc dòng đi tu, ít khi ngự đồng. Trang phục của Ngài là áo đỏ khăn hồng (khăn buồm). Ngài làm việc trong nội cung phủ Giầy.
- Thân thế: Chầu bà đệ nhị thượng ngàn công chúa theo dân gian tương truyền là con gái gia đình người Mán ở Đông Cuông, tên húy là Lê Thị Kiệm, vợ của ông Hà Văn Thiên, người Tày được triều đình giao cai quản vùng Đông Cuông. Bà là hóa thân của Mẫu đệ nhị của chúa. Bà là hình mẫu của dân ta trên cõi thượng ngàn. Chầu bà hạ sinh vào giờ dần ngày Mão tháng giêng năm Thân. Có tích nói ngày Mão tháng Mão năm Thân thuộc thời Lê là con vua Đế Thích thiên đình. Ngày tiệc của Bà là ngày mão đầu tiên của năm.
- Quyền lực: Quyền của chầu bà là cai quản 36 động sơn trang
- Đền chính: Đông Cuông, Tuần Quán, Bảo Lạc
- Tên đầy đủ: Đệ tam thủy tinh công chúa là sự hiện hóa của Mẫu đệ tam.
- Đền thờ chính: Đền thờ chầu ở đền Rồng, đền Nước, đền Hàn Thanh Hóa, đền Mẫu Thoải Lạng Sơn và các cửa sông cửa bể.
- Thân thế:
- Tên đầy đủ: Đệ tứ tùy tòng công chúa theo tương truyền là bà Chiêu Dung công chúa, là tùy tướng của Hai Bà Trưng, một trong tám tướng hồng nương.
- Nhiệm vụ: Chầu là tùy tòng hầu cận bên Mẫu tam tòa, làm việc nội cung quản lý sổ sách trần gian.
- Đền chính: Chầu mặc áo vàng chít khăn buồm, hiện có đền chầu ở phủ Giầy, đền Cây Thị Thanh Hóa, Đền Thượng Lào Cai, đền chầu đệ tứ Gia Lâm.
- Sắc phong: Các triều đại gia phong anh hùng liệt nữ.
- Đền thờ chính: Đền thờ Chầu hiện nay ở cửa Rừng suối Lân Lạng sơn.
- Thân thế:
Chầu Năm Suối Lân. Chầu Năm vốn là người Nùng, dưới thời Lê
Trung Hưng ( còn có tài liệu ghi lại rằng, chầu là công chúa tìm nơi
thanh vắng, đền cảnh Suối Lân thì chầu ở lại giúp dân), theo lệnh vua,
chầu trấn giữ cửa rừng Suối Lân bên dòng sông Hóa, coi sóc khắp vùng
sông Hóa. Ở đó chầu không chỉ trấn giữ nơi sơn lâm mà còn giúp dân làm
ăn, dạy dân đi rừng, làm nương. Sau này, chầu hóa tại đó và hiển linh
giúp dân thuần phục mọi loài ác thú, trừ diệt sơn tinh, ma quái. Tương
truyền vào những đêm thanh, chầu hiện hình cùng 12 cô hầu cận bẻ lái
giữa dòng sông Hóa.
Thông thường thì Chầu Năm ít ngự đồng hơn là Chầu Lục, chầu chỉ
thường ngự trong ngày tiệc vui hoặc những ai sát căn về chầu thì mới hay
hầu. Tuy nhiên Chầu Năm cũng là vị chầu bà trên sơn trang nên có đôi
khi người ta cũng thỉnh chầu về chứng tòa Sơn Trang. Chầu ngự về đồng
thường mặc áo màu lam (bây giờ ở một số nơi, để tránh áo Chầu Năm trùng
với áo Chầu Lục thì người ta thường dâng chầu áo xanh thiên thanh và coi
đó là màu áo của dòng Suối Lân hoặc chầu cũng có thể mặc áo màu xanh
như của Chầu Đệ Nhị), chầu khai cuông rồi múa mồi. Chầu Năm là vị chầu
bà cũng có thể chứng cho con nhang đệ tử đội mâm giầu trình.
Đền thờ Chầu Năm Suối Lân được lập bên bờ con sông Hóa, qua cầu
Sông Hóa 2 thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, tên là Đền Suối Lân, dòng
suối Lân chảy cạnh đền quanh năm nước trong veo, xanh ngắt. Ngày tiệc
chầu được tương truyền là ngày 20/5.
- Tên khác: Mế lục cung nương, lục cung đô thống.
- Đền thờ chính: Đền thờ Chầu ở Hữu Lũng (Đền 94) Lạng Sơn, Cây Xanh Tuyên Quang
- Thân thế: Theo tương truyền Chầu là con gái tù trưởng người Nùng Hữu Lũng Lạng Sơn, mẹ là công chúa nhà Trần, hạ sinh vào thượng tuần tháng 9 ngày 10 năm Thân. Chầu là hiện thân của Mẫu Liễu Hạnh, con vua cha Ngọc Hoàng, làm rơi chén ngọc nên bị đầy xuống trần gian 15 năm.
Chầu Lục Cung Nương. Chầu Lục vốn là người Nùng (vì vậy nên
có người còn gọi bà là Mế Lục Cung Nương), con nhà lệnh tộc trên vùng
Chín Tư, Lạng Sơn cũng dưới thời Lê Trung Hưng.
Tương truyền, chầu vốn là tiên nữ trên Thiên Đình, chẳng may để
rơi chén ngọc nên bị trích giáng xuống trần gian. Chầu giáng sinh vào
nhà họ Trần (cha họ Trần, mẹ họ Hoàng) vốn là lệnh tộc trên miền Lạng
Sơn (lại có tài liệu cho rằng Chầu Bà giáng sinh vào nhà họ Quách vào
giờ Mão, ngày Mão, tháng Mão, năm Kỉ Mão, được đặt tên là Quách Thị Hồng
Hoa), được 19 năm thì mãn hạn về chầu Đế Đình, nhưng vì chầu còn thương
nhớ phụ mẫu nơi trần gian nên Ngọc Đế cho bà hiển thánh, cai giữ miền
non ngàn sơn trang, nơi rừng Chín Tư, Hữu Lũng. Cũng như Chầu Năm, Chầu
Lục hiển ứng giúp dân làm trồng trọt. Tuy anh linh nhưng bà cũng rất
đành hanh, còn lưu truyền rằng, chầu thường cùng các bạn tiên nàng giả
làm các cô gái người Nùng, bán hàng, ung dung cợt khách qua đường.
Chầu Lục cũng là một trong các vị chầu danh tiếng trên ngàn có
lẽ bởi vì chầu rất hay bắt đồng. Cũng như Chầu Đệ Nhị, người ta cũng
thường hay thỉnh Chầu Lục về ngự đồng. Đôi khi Chầu Lục lại là giá chầu
về sang khăn cho đồng tân lính mới và chứng đàn Sơn Trang trong lễ mở
phủ. Chầu Lục cũng có thể chứng mâm giầu trình. Khi ngự đồng, chầu mặc
áo màu lam (hoặc màu chàm xanh), khai cuông rồi múa mồi.
Đền thờ Chầu Lục Cung Nương được lập tại thôn Chín Tư, xã Hòa
Lạc, huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn (tương truyền là nơi chầu hạ phàm và
hiển thánh) được gọi là Đền Lũng hay Đền Chín Tư. Trong năm ngày tiệc
Chầu Lục có hai ngày là ngày 10/5 âm lịch (có người nói đó là ngày đản
sinh của chầu nhưng điều này cũng chưa chắc chắn) và ngày 20/9 âm lịch
(có người cho đó là ngày hóa, có người lại cho rằng đó mới là ngày đản
sinh của chầu chứ không phải là 10/5 âm lịch).
- Thân thế: Theo tương truyền Chầu là tướng của Hai Bà Trưng hạ sinh ở Mỏ Bạch Thái Nguyên, khi thất thế Chầu hóa thân tại Tân La
- Tước phong: Chầu anh linh giúp dân giúp nước, các đời truy tặng anh hùng liệt nữ.
- Đền thờ chính: Đền thờ Chầu ở Tân La, Mỏ Bạch…
Chầu Bảy Kim Giao. Chầu Bảy vốn là người Mọi, chầu giáng thế
để giúp dân. Chầu hạ sinh vào gia đình ở đất Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái
Nguyên, sau này chầu giúp dân dẹp loài xâm lăng trên đất Thái Nguyên rồi
bà cũng là người giúp người dân tộc Mọi biết làm ăn canh tác trồng trọt
chăn nuôi (còn có người cho rằng bà chính là người dạy dân biết trồng
chè tuyết). Sau này khi về thiên, chầu được giao quyền quản cai núi rừng
Mỏ Bạch, Thái Nguyên, tương truyền vào những đêm canh khuya chầu thường
hiện hình dạo chơi, cùng các tiên nàng hội họp giữa rừng xanh (Lại có
tài liệu cho rằng bà là một vị nữ tướng dưới thời Hai Bà Trưng, cùng
Chầu Bát đánh giặc và sau được thờ tại Tân La, Hưng Yên nên còn gọi là
Chầu Bảy Tân La).
Chầu Bảy là vị chầu bà ít khi ngự đồng nhất trong hàng Tứ Phủ
Chầu Bà. Rất hiếm khi thấy có người nào hầu mà bà về ngự. Nếu có chỉ là
khi về đền chính của chầu, bà ngự đồng mặc áo màu tím (hoặc màu xanh),
khai cuông rồi múa mồi.
Đền thờ Chầu Bảy Kim Giao là Đền Kim Giao tại Thanh Liên, Mỏ
Bạch thuộc tỉnh Thái Nguyên (tương truyền là nơi còn in dấu tích của bà
năm xưa).
8. Chầu Bát- Tên khác: Chầu Tám thượng ngàn, Bát nàn đại tướng Đông Nhung
- Thân thế: Chầu quê ở vùng Phượng Lâu Bạch Hạc. Chầu dấy binh khởi nghĩa theo Hai Bà Trưng, sau khi thất thủ Chầu rút chạy từ Đồng Mỏ về Thái Bình ẩn náu trong chùa Tiên La. Khi giặc Hán phát hiện đã bao vây, Chầu quyết một lòng kiên trung mở đường máu tử tiết ở giữa sân chùa anh linh đã dậy tiếng đồn khắp bốn phương nức tiếng âu ca đá vàng ghi tạc sử xanh muôn đời, trải qua các triều đại sắc phong anh hùng liệt nữ. Chầu về đồng mặc áo vàng chít khăn củ ấu, ra tay dấu 8 ngón, lưng đeo kiếm cờ khai quang múa kiếm múa cờ.
Chầu là vị chầu bà giáng sinh dưới thời nước ta còn trong ách
đô hộ của nhà Đông Hán, tên thật của bà là Vũ Thị Thục Nương, con gái
thầy thuốc Vũ Chất, nguyên quán ở Phượng Lâu, Bạch Hạc (nay thuộc Vĩnh
Phúc).
Tương truyền, gia đình họ Vũ vốn thuộc dòng hào phú, một hôm ông
Vũ Chất đi dạo chơi qua ngọn núi nọ, thấy ngôi miếu thờ Sơn Tinh Công
Chúa được lập từ thời thượng cổ, nay hoang tàn đổ nát, ông thành tâm
liền huy động nhân dân quanh vùng góp tiền của công sức để tu sửa lại
ngôi đền khang trang hơn. Khi về đến nhà chợt nằm mộng thấy có người
tiên nữ đến xin làm con để trả ơn đã sửa đền. Liền đó, vợ ông thấy gió
thu thổi, rồi có bóng người tiên nữ hiện ra trong làn hoa rơi trước cửa,
kế đến thái bà thụ thai, đến ngày rằm tháng tám thì hạ sinh được chầu
bà. Bà là người con gái xinh đẹp đảm đang lại giỏi cung kiếm. Thái Thú
Giao Châu lúc bấy giờ là Tô Định đem lòng si mê, muốn cùng bà kết duyên
nhưng bà không chịu. Hắn bèn sai người giết hại cha bà cùng với lang
quân của bà là Phạm Danh Hương. Thù nhà nợ nước, bà bèn tập hợp quân dân
phất cờ khởi nghĩa. Vào năm 40 (SCN), chầu cùng với Hai Bà Trưng đánh
đuổi được quân xâm lược Đông Hán (trong tích này còn lưu truyền câu
chuyện, khi dấy binh ở Tiên La thì chầu bà đã nghe tiếng Hai Bà Trưng
hiệu triệu, nhưng còn băn khoăn chưa biết có nên tập hợp nghĩa quân cùng
Hai Bà không, thì vào đêm đó, chầu nằm mơ thấy nữ thần vâng lệnh Ngọc
Hoàng xuống trao cho chầu bà lá cờ thần (cờ xan) và khuyên chầu nên theo
Hai Bà Trưng phất cờ dẹp giặc, và Chầu Bát đã làm theo ý trời, về Mê
Linh tụ nghĩa), chầu được Bà Trưng Vương phong cho là Bát Nàn Đông Nhung
Đại Tướng Quân (còn có cách giải thích là chầu đã giúp dân thoát khỏi
tám nạn của quân đô hộ nên có danh “Bát Nàn Tướng Quân” là do đọc chệch
từ “bát nạn”), giao cho bà cùng với bà Lê Chân (Thánh Thiên Công Chúa)
trấn giữ miền duyên hải (từ Hải Phòng đến Thái Bình). Năm 43 (SCN), sau
ba năm nước nhà độc lập, quân Đông Hán dưới quyền chỉ huy của Mã Viện,
quay lại xâm chiếm nước ta, bà cùng với Hai Bà Trưng kiên cường đánh
trả, nhưng do thế yếu ( trong trận quyết chiến cuối cùng, quân giặc đã
dùng kế hiểm, biết binh sĩ ta toàn nữ giới, nên chúng hò nhau khỏa thân
xông vào, các bà không chống đỡ nổi phải rút lui), cuối cùng chầu cũng
theo gương hai bà, trẫm mình để bảo toàn khí tiết (có tài liệu còn ghi
lại khi bà kéo quân về đến ngã ba Nông thì đột nhiên có dải lụa hồng từ
đâu bay tới, thế là quân giặc liền hò réo để bao vây bà, thi thể của bà
xẻ làm tám mảnh, trôi về đâu, hiển ở đấy để nhân dân lập đền thờ).
Chầu Bát cũng thường hay ngự về đồng (nhất là trong những dịp
tiệc vui hoặc về đền chầu). Khi ngự đồng bà thường mặc áo màu vàng
(trước đây thì thường lại là màu xanh), đầu đội khăn đóng (khăn vành
dây) màu vàng, có dải von hoặc vỉ lét thắt dải buộc, sau lưng dắt kiếm
và cờ lệnh, tay múa kiếm và cờ lệnh ngũ sắc.
Đền thờ Chầu Tám Bát Nàn có ở rất nhiều nơi: nổi tiếng nhất có
Đền Tiên La thuộc thôn Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (tại
đây là nơi nhân dân chịu ơn chầu cũng là nơi di thể chầu trôi về, nên ở
đây chầu còn được tôn xưng hẳn là Mẫu Tiên La, nên cũng có khi gọi là
Chầu Bát Tiên La), tại đây vẫn còn lưu truyền câu chuyện: khi Chầu Bát
đã thác ở trên ngàn, chầu còn hóa phép đốn cây rừng, đóng thành bè gỗ
theo dòng trôi về bến sông gần đền Tiên La rồi bà báo mộng cho người thủ
đền cùng dân quanh vùng ra đón bè về để tu sửa đền. Tiếp đến là Đền
Đồng Mỏ, thuộc thị trấn Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn (tương truyền là nơi chầu
hóa), ngoài ra còn có Đền Tân La ở Dốc Lã thuộc tỉnh Hưng Yên (là nơi
chầu đóng quân) và Đền Tiên La (đền vọng) hay còn gọi là Đền Tám Gian
tại đường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng (cũng là nơi di
hài chầu trôi về, tại đây bà còn được tôn xưng với tên Chúa Bát Nàn,
thường được hầu sau hàng Tam Vị Chúa Mường, về làm lễ tấu hương và khai
quang như quan lớn chứ không hầu vào hàng Tứ Phủ Chầu Bà như thông
thường) và còn rất nhiều đền khác trong tỉnh Thái Bình và nơi quê nhà
của bà ở tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày tiệc của Chầu Bát là ngày 17/3 âm lịch (là
ngày chầu hóa).
- Đề thờ chính: Đền thờ Chầu ở Lạng Sơn (nơi Chầu đánh trận và để lại lá cờ thần), ở Tiên La Thái Bình (nơi Chầu ẩn náu và tiết khí hi sinh).
- Thân thế: Chầu bà vốn là tiên nữ trên Thiên Đình, sinh giáng ở đất Bỉm Sơn, Thanh Hóa, làm phúc giúp dân. Sau này khi thác hóa bà trờ thành vị Chầu Bà kề cận, biên chép sổ sách bên Cửu Trùng Thiên Cung Vạn Hoa Vương Mẫu. Khi thanh nhàn chầu thường cùng bạn cát dạo chơi khắp nơi, giáng hiện tại đất Thanh Hóa (có tài liệu cho rằng bà cũng là người cai quản chín mạch nước giếng âm dương trên đất Thanh. Theo âm Hán: Cửu là chín, Tỉnh là giếng nên Cửu Tỉnh cũng có nghĩa là chín giếng), có khi chầu cũng giá ngự trong Đền Sòng (vì vậy đôi khi người ta cũng gọi là Chầu Cửu Đền Sòng). Cũng có quan niệm cho rằng bà là Thụy Hoa Công Chúa (hay có một số sách nói là Chầu Quỳnh) trên Thiên Cung, xuống Đồi Ngang, Phố Cát, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh.
Vì coi là kề cận bên Mẫu nên Chầu Cửu thường được thờ chính ở
những ngôi đền chính của Mẫu như Đền Rồng, Thanh Hóa và Phủ Bóng, Nam
Định ngoài ra ở một số đền còn thờ chầu làm Chầu Thủ Đền coi giữ trong
bản đền. Nhưng ngôi đền được coi là đền chính của chầu là Đền Sòng Sơn ở
Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Khi chầu ngự đồng văn thường hát:
- Tên khác: Mỏ Ba công chúa
- Thân thế: Chầu là con gái tù trưởng ở đất Đồng Mỏ. Sinh thời Chầu giỏi võ và kiếm cung, khi vua Lê Thái Tổ hiệu triệu toàn dân đánh giặc, Ngài đã chiêu binh ra sức giúp triều đình. Sau khi giặc tan triều đình phong công. Chầu giúp dân lập ấp tế trợ cứu bần. Đến mùa thu Chầu mãn hạn về tiên. Triều đình phong tặng anh hùng liệt nữ, tiếng Chầu anh linh biến hiện khắp Bắc Trung Nam xa gần nô nức trảy hội Mỏ ba. Chầu được Ngọc Hoàng sắc phong Khâm sai bốn phủ – một trong những vị Chầu tối linh được nhân dân và con nhang đệ tử phụng sự loan giá. Chầu về ngự áo vàng khăn chữ nhân, ra tay dấu 10 ngón, lưng đeo kiếm cờ múa kiếm múa cờ ngự đồng loan giá phán chỉ thông truyền chứng lễ hoa quả lương thực.
Chầu Mười vốn là người Tày, dưới thời Lê Thái Tổ Trung Hưng khởi
binh chống giặc. Chầu sinh quán trong một gia đình có truyền thống đao
cung ở đất Mỏ Ba (Đồng Mỏ), Lạng Sơn. Sau này, chầu trở thành vị nữ
tướng tài ba, tập hợp quân dân các dân tộc ở đất Đồng Mỏ, giúp vua Lê
đánh đuổi giặc Minh. Vua rất tin tưởng, giao cho chầu trấn giữ các châu,
nơi cửa ải Chi Lăng. Trong trận quyết chiến Chi Lăng, Xương Giang, chầu
đã lập chiến công, chém cụt đầu tên tướng giặc là Liễu Thăng. Kháng
chiến thắng lợi, bà được vua phong công, giao cho cai quản vùng Mỏ Ba,
Đồng Mỏ, trấn giữ ải Chi Lăng. Tại vùng Mỏ Ba, ba giúp dân lập xóm ấp
làng bản, dạy dân làm ăn, được già trẻ xa gần ai ai cũng mến phục. Đến
cuối mùa thu thì chầu về tiên.
Chầu Mười thường hay về ngự đồng trong các dịp tiệc vui hoặc
các cửa đền ở đất Lạng Sơn. Khi ngự đồng, chầu thường mặc áo vàng, một
múa kiếm, tay kia múa cờ lệnh (hoặc mồi) là khi chầu xông pha nơi trận
mạc.
- Đền thờ chính: Đền Chầu Mười được lập ngay sát cửa ải Chi Lăng, nơi bà trấn giữ năm xưa, chính là Đền Chầu Mười Đồng Mỏ hay Đền Mỏ Ba, lập tại xã Mỏ Ba, thị trấn Đồng Mỏ, Lạng Sơn.
- Thân thế: Chầu bé Bắc Lệ công chúa là con gái người Nùng ở Hữu Lũng Lạng Sơn, bị giặc cưỡng bức đã hòa mình xuống sông Bắc Lệ. Chầu anh linh giúp dân giúp nước độ người viễn sứ tha hương, lúc lại hiện hóa ra người bán hàng, chữa bệnh. Ngài là hiện thân của Mẫu đệ nhị thượng ngàn.
- Đền thờ chính: Đền thờ Chầu tại Đền Công Đồng Bắc lệ .
Chầu Bé vốn gốc người Nùng, dưới thời Lê Thái Tổ, chầu giáng
sinh xuống miền Bắc Lệ, Lạng Sơn. Chầu cũng là vị có công giúp dân, giúp
nước. Có tài liệu cho rằng Chầu Bé tuy là một vị chầu bà người Nùng
trên Lạng Sơn, nhưng chầu lại chính là do Mẫu Thượng Ngàn hóa thân, giúp
vua Lê Thái Tổ trong cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, và sau
này được vua phong là Lê Mại Đại Vương. Vậy nên đôi khi Chầu Bé cũng
được đồng nhất với Bà Chúa Sơn Trang. Chầu dạo chơi khắp chốn thắng cảnh
hữu tình, dạy dân chúng trồng trọt chăn nuôi, lên rừng làm ruộng bậc
thang, xuống sông suối đánh bắt cá tôm. Tương truyền, Chầu Bé có phép
thần thông do Đức Thái Tổ ban quyền có thể lay núi chuyển ngàn, đôi lúc
rong chơi chầu lấy tàu lá giả làm hàng bán để trêu đùa người trần gian.
Tuy đành hanh sắc sảo nhưng chầu cũng hết sức nhân hậu, có việc dữ lành
chầu đều mách bảo cho người trần.
Chầu Bé cùng với Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục, là một trong ba vị
Chầu Bà trên Thượng Ngàn hay về ngự đồng nhất. Tuy thứ bậc chầu gần như
là cuối cùng trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà nhưng không một ai hầu mà chầu
không ngự đồng. Chầu ngự về đồng thường hay mặc áo đen (hoặc xanh chàm,
còn trước đây chầu chỉ mặc quầy và áo ngắn đến hông), chân đi xà cạp,
trên vai đeo gùi hoa, chầu về đồng thường khai quang rồi múa mồi. Đôi
khi Chầu Bé có thể giống như Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục: chầu về chứng tòa
Sơn Trang trong đàn mở phủ, sang khăn cho tân đồng hoặc chứng mâm giầu
trình.
Chầu Bé Bắc Lệ và hai hầu cận bên Chầu là Nàng "Ân", nàng "Ái".
Đền thờ chính của Chầu Bé là ngôi đền nhỏ bên cạnh đền Bắc Lệ ở xã Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn với ngày tiệc chầu thì có nơi nói là 12/9 âm lịch, có nơi nói là 19/9 âm lịch. Ngoài Chầu Bé Bắc Lệ ra thì ở một số bản đền có các Chầu Bé cũng trên Thượng Ngàn, là Chầu Bé coi giữ ở đền đó và chỉ khi về chính đền, các vị đó mới ngự.
- Tên khác: Bản Đền công chúa hay Thủ điện công chúa
- Thân thế: Chầu là hiện thân của các vị thánh Mẫu tùy vào bản đền đó và địa phương mà Ngài thị hiện, vì vậy Chầu về đồng các màu sắc, thường người hầu Chầu thủ đền vào đầu năm thì mặc áo hồng khăn hồng, cuối năm thì mặc áo xanh khăn xanh.
- Hiện nay người ta không hầu và cũng không biết đến giá Chầu nữa nhưng văn Chầu thủ đền và một số nơi vẫn được lưu giá và hầu Ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét