Công cha ngãi mẹ sinh
thành
(ngãi: tình nghĩa, giống từ nghĩa)
Mang con chín tháng thai sinh một giờ
(ngãi: tình nghĩa, giống từ nghĩa)
Mang con chín tháng thai sinh một giờ
Trong lòng chẳng ngại tanh
dơ
Nuôi con từ thủa ngây thơ như
là
Chớ quên ngãi mẹ công
cha
Công mẹ cũng lắm công cha thời
nhiều
Nào khi bồng bế nâng
niu
Sinh con đâu quản công lao nhọc
nhằn
Nào khi con bú con
ăn
Đêm nằm quần áo chiếu chăn ướt
đằm
Ướt thời mẹ chịu đành
tâm
Ráo xê con lại con nằm cho
êm
Đốt đèn suốt cả thâu
đêm
Chờ cho con ngủ ấm êm mẹ
nằm
Mong ngày mong tháng mong
năm
Mong bao giờ được lớn khôn bằng
người
Dạy con phải giữ đạo
trời
Kính thờ cha mẹ là người hiếu
trung
Thái sơn phụ mẫu ngàn trùng
(phụ mẫu: cha mẹ. Câu này ý nói công
lao cha mẹ như núi thái sơn vô cùng không kể
xiết)
Khuyên con giữ đạo hiếu trung thảo
hiền
Mẹ cha (thời già) chân yếu tay
mềm
Đền cơm giả sữa kẻo phiền mẹ
cha
(đền cơm giả sữa; báo hiếu công ơn
cha mẹ nuôi dưỡng ta)
Nuôi con tươi tốt bằng
hoa
Phòng khi tuổi luống khi già nhờ con
(tuổi luống: tuổi đã nhiều)
Bõ công lội suối trèo
non
Mẹ cha tích đức cho con sau
này
Có tiên thời hậu mới hay
(tiên: trước, hậu: sau. Câu này
khuyên con ăn ở có trước có sau.)
Cha trồng cây đức mẹ rầy đền
ân
Khuyên con giữ đạo hiếu thân
(đạo hiếu thân: đạo làm con giữ chữ
hiếu với cha mẹ)
Cảm thương cha mẹ ân cần ra
con
Mặc ai phải đạo làm
con
Nhớ công cha mẹ lại càng nhớ
thương
Thập ân ngẫm tới con
thương
Lặng nghe tôi kể đoạn trường khúc
nhôi
(đoạn trường khúc nhôi: nỗi niềm
tâm sự xót xa như đứt từng khúc ruột vậy)
Một ân mẹ mới có
thai
Âm dương nhị khí nào ai biết
gì
Trong lòng mẹ chịu sầu
bi
Miệng thời cay đắng dạ thời héo
hon
Bữa ăn không biết miếng
ngon
Đắng cay chua xót vì con đêm
ngày
Hai ân ngãi mẹ bao
tày
Mang con chín tháng có thai nặng
nề
Thương con đi sớm về
trưa
Của ngon vật lạ chẳng hề ước
ao
Mang mể khó nhọc ôm giao
(mang mể: đeo mang gánh vác nhọn
nhằn
có thể dùng từ mang mển nghĩa là mang
thai)
Nặng nề mẹ chịu quản bao công
trình
Ba ân mùa tới tháng
sinh
Khác gì ruột mẹ một mình ai ương
(ai ương: khó chịu)
Kể từ thập nguyệt thai dương
( coi thời gian mang thai là mười
tháng)
Thâm bào mang mể cùng con nhọc
nhằn
Mang con vật lạ không
ăn
Đã được chín tháng trông mong mười
ngày
Tới tuần hoa nở liền tay (tới lúc
sinh nở)
Bao giờ con đấy mẹ đây với
mừng
Nén vàng lạng bạc nào
bằng
Nâng thời bằng ngọc coi bằng bông
hoa
Lắng nghe con khóc trong
nhà
Xót xa lòng mẹ được mà lòng
con
Sinh thành đạo đức núi
non
Vì con mẹ chịu chiếu giường tanh
hôi
Cù lao vất vả con ơi (cù lao :
công lao cha mẹ)
Góc bể biên trời lai láng cồn toan
(rộng lớn khôn xiết)
Bốn ân thảm thiết cơ
hàn
Tanh dơ lai láng chứa chan ướt
đằm
Ướt thời mẹ chịu đành
tâm
Ráo xê con lại con nằm cho
êm
Đốt đèn suốt cả thâu
đêm
Chờ cho con ngủ ấm êm mẹ
nằm
Năm ân sài ghẻ con cam (bệnh của trẻ
con)
Của ngon vật lạ không ham không
hề
Bao nhiêu của lạ vật
kì
Miếng ngon miếng ngọt nhường thì cho
con
Miếng nào cay đắng không
ngon
Chịu khó ăn vậy cho con như
vầy
Sáu ân con khóc (mẹ) lo
thay
Ru đêm quên ngủ ru ngày quên
ăn
Mùa đông giá rét căm
căm
Chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo xê
con
Thiếu gì của lạ miếng
ngon
Thiếu gì thịt cá giò nem ngọt
bùi
Cơm ăn với muối (mẹ) khen
bùi
Nước kia đắng ngắt biết mùi gì
ngon
Bảy ân tới lúc lên hoa (lên hoa: bệnh
đậu mùa)
Biết bao khó nhọc xót xa đêm
ngày
Để thời nặng nhọc đắng
cay
Tốn bao tiền của thuốc thầy quản
chi
Trông mong từng cữ từng
thì
Chăm con từng tí từng ti lo
dần
Con đau mẹ chẳng an
thân
Mẹ cha những nỗi lo dần vì
con
Thương thay lúc mẹ bồng
con
Tuôn đôi dòng lệ như nguồn non
xanh
Đói no mẹ nhịn cho
đành
Cầu cho con khỏe mạnh lành là
hơn
Tám ân xiết nỗi nguồn
cơn
Thời lòng cha mẹ nghĩ quên đớn
sầu
Bể trời rộng cả cao
sâu
Lấy cân ai nhấc ai hầu được
chưa
Lo dần ngày tháng thoi
đưa
Gió mưa đã trải bây giờ mới
hay
Quế nhung tiền nợ ông
thầy
(quế nhung: thứ thuốc bổ cho trẻ
con)
Tốn bao nhiêu của đêm ngày vì con
Mẹ thời khoi khóp héo
hon
(khoi khóp: chịu đựng cực khổ hao gầy
hình dáng)
Gia tài cơ nghiệp vì con những
là
Cầu cao bể rộng đã
qua
Bấy giờ cha mẹ với đà an
thân
Cả lớn khôn cha mẹ mừng
thầm.
Thần hôn khuya sớm ân cần dạy
nuôi
(thần: sớm; hôn: tối,
khuya)
Thấy con ăn nói tươi
cười
Bấy giờ cha mẹ mới nguôi trong
lòng
Thấy con đẹp đẽ hình dong (hình
dong: hình dáng)
Bấy giờ cha mẹ bằng lòng dưỡng
sinh
Chín ân con đã trưởng
thành
Gái trai định liệu học hành văn
chương
Trai thời thi đỗ khoa
trường
Khôi nguyên nhất cử bảng vàng đề
danh
Gái thời lại dạy hiển
vinh
Nhã nhặn nhu mì ngôn hạnh công
dung
Mười ân cưới vợ gả
chồng
Con con cháu cháu thong dong thọ
trường
Chả gì hơn phụ mẫu tại
đường
(phụ mẫu tại đường: cha mẹ còn
trong nhà
cha mẹ chưa
khuất núi)
Tử tôn hưng thịnh văn chương đời
đời
Thập ân từ đó mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét